Nắm bắt rủi ro và lợi ích từ biến động thuế quan
Cuộc chiến thuế quan Mỹ - Trung đang thúc đẩy thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam có cả cơ hội mới trong xuất khẩu và sản xuất, song song với các rủi ro như chi phí tăng cao và các thách thức đa chiều về giám sát thương mại. Điều quan trọng là cần nắm bắt những thay đổi, rủi ro và lợi ích từ biến động thuế quan này.
Cơi hội từ đa dạng hóa chuỗi cung ứng
Từ năm 2018, xung đột thương mại Mỹ - Trung đã khiến nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu phải tiến hành tái cấu trúc từ mạng lưới toàn cầu sang mạng lưới mang tính khu vực hóa hơn, nơi các doanh nghiệp ưu tiên quản trị rủi ro và khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng hơn là hiệu quả chi phí thuần túy.
Giới phân tích nhận định, với các mức thuế quan “ăn miếng, trả miếng” được Mỹ và Trung Quốc công bố mới đây, có thể thấy xu hướng phi toàn cầu hóa sẽ tiếp diễn, trong đó các biện pháp bảo hộ từ cuộc thương chiến có thể gây ra tác động tiêu cực lên toàn bộ các chuỗi cung ứng.
![Ảnh minh họa](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_578_51477301/75835134637a8a24d36b.jpg)
Ảnh minh họa
Theo TS. Nguyễn Sơn - giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Đại học RMIT, tác động về chi phí có thể rất lớn, với nguy cơ giá cả leo thang trong các ngành công nghiệp bị áp thuế và cả các ngành có liên quan như vật liệu, năng lượng, ô tô và điện tử.
Chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump đã áp dụng mức thuế bổ sung 10% vào ngày 4/2 đối với các sản phẩm từ Trung Quốc. Sau đó, ngày 10/2, Chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố sẽ đánh thuế 15% đối với than và khí đốt tự nhiên hóa lỏng của Mỹ, đồng thời cũng sẽ đánh thuế 10% đối với các mặt hàng như dầu thô, máy móc nông nghiệp và ô tô động cơ lớn.
“Mặc dù điều này tạo ra gián đoạn ngắn hạn và chi phí vận hành cao hơn nhưng cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường và các trung tâm sản xuất mới ra đời. Các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, đã nổi lên như là bên hưởng lợi chính từ sự thay đổi này trong nhiều chuỗi cung ứng khác nhau”- TS. Sơn nói.
Phân tích rõ hơn nhận định này, TS. Sơn cho biết, các doanh nghiệp đang đẩy mạnh đa dạng hóa hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc để giảm thiểu các rủi ro về địa chính trị trong chuỗi cung ứng. Họ đã thiết lập mạng lưới cung ứng dự phòng (chiến lược “Trung Quốc + 1”), đẩy nhanh quá trình tự động hóa và tăng cường hội nhập khu vực.
Do vậy, theo ông: “Xét cho cùng, việc đa dạng hóa các địa điểm sản xuất và nhà cung cấp góp phần tăng cường khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng bằng cách giảm phụ thuộc quá mức và tạo ra các mạng lưới linh hoạt hơn, có khả năng thích ứng và vượt qua các thách thức địa chính trị trong tương lai”.
Xuất khẩu sang Mỹ có thể tăng
Việc Mỹ tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc tạo ra cơ hội đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu, theo TS. Irfan Ulhaq, một giảng viên khác đến từ ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Đại học RMIT.
Ông cho biết, người mua tại Mỹ đang tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế và ngành sản xuất mạnh mẽ của Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, dệt may, giày dép và đồ nội thất, khiến Việt Nam trở thành đối thủ cạnh tranh hàng đầu. Các hiệp định thương mại và năng lực sản xuất hiệu quả về mặt chi phí của Việt Nam mang lại lợi thế cạnh tranh để đảm bảo duy trì hợp đồng dài hạn với các nhà nhập khẩu Mỹ.
![Các hiệp định thương mại và năng lực sản xuất hiệu quả về mặt chi phí của Việt Nam mang lại lợi thế cạnh tranh. Ảnh minh họa](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_578_51477301/450f60b852f6bba8e2e7.jpg)
Các hiệp định thương mại và năng lực sản xuất hiệu quả về mặt chi phí của Việt Nam mang lại lợi thế cạnh tranh. Ảnh minh họa
“Để khai thác đầy đủ các cơ hội này, doanh nghiệp nên tuân thủ các quy định thương mại của Mỹ, đảm bảo tính minh bạch về nguồn gốc sản phẩm và tiêu chuẩn chất lượng. Đầu tư vào thương hiệu, nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng như các kỹ thuật sản xuất tiên tiến sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh” - TS. Ulhaq cho biết.
Ông cũng nêu bật Nghị định 182/2024/NĐ-CP của Chính phủ nhằm khởi động Quỹ hỗ trợ đầu tư để thúc đẩy đầu tư công nghệ cao, bao gồm cả chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và R&D. Các ưu đãi theo nghị định này cung cấp thêm hỗ trợ tài chính cho việc mở rộng, đổi mới và tiến bộ công nghệ, giúp các doanh nghiệp đảm bảo vị thế của mình trên thị trường Mỹ.
Tuy nhiên, việc Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu sang Mỹ (hiện chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam) cũng khiến Việt Nam dễ bị tổn thương bởi những thay đổi chính sách của Mỹ. Một rủi ro đáng kể khác là chi phí nguyên liệu thô tăng do gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, có thể làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu.
Để duy trì tăng trưởng bền vững, TS. Nguyễn Mạnh Hùng- Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, Đại học RMIT cho rằng, Việt Nam nên coi những biến động thuế quan sắp tới này là động lực để phát triển khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng của mình.
Theo ông, khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam chứng minh được tính nguyên bản của sản phẩm và phân biệt chúng với các sản phẩm của Trung Quốc. Điều này đặc biệt quan trọng khi Mỹ và các thị trường toàn cầu khác ngày càng giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động trung chuyển, nơi hàng hóa được đóng gói lại hoặc dán nhãn lại tại Việt Nam để tránh thuế đối với các sản phẩm Trung Quốc.
“Cuộc chiến thương mại này mang đến cho Việt Nam cơ hội tái cấu trúc các chuỗi cung ứng. Sẽ không bền vững nếu chỉ trở thành trạm trung chuyển cho khâu đóng gói đơn giản. Thay vào đó, Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn để triển khai các quy trình công nghệ mang lại giá trị gia tăng”- TS. Hùng nhấn mạnh.
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng nên chủ động đa dạng hóa nguồn nguyên liệu thô cho sản xuất để tránh bị ảnh hưởng bởi các cuộc điều tra chống trốn thuế trong tương lai./.
Theo TS. Nguyễn Sơn, Việt Nam nên tiếp tục đa dạng hóa các mối quan hệ thương mại thông qua các hiệp định thương mại tự do, đồng thời vẫn duy trì mối quan hệ cân bằng với cả Mỹ và Trung Quốc. Điều này giúp giảm sự phụ thuộc quá mức vào bất kỳ thị trường đơn lẻ nào và cung cấp các điểm đến xuất khẩu thay thế nếu căng thẳng thương mại leo thang.