Hội chứng sau bại liệt: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh
Hội chứng sau bại liệt là các biến chứng xảy ra sau khi bị bại liệt khoảng thời gian dài. Đây là một bệnh lý của hệ thần kinh có khả năng gây teo yếu cơ và dây thần kinh đối với những bệnh nhân sau khi mắc bại liệt.
1. Nguyên nhân gây hội chứng sau bại liệt
Nội dung
1. Nguyên nhân gây hội chứng sau bại liệt
2. Triệu chứng hội chứng sau bại liệt
3. Hội chứng sau bại liệt có lây không?
4. Phòng ngừa hội chứng sau bại liệt
5. Điều trị hội chứng sau bại liệt
Bại liệt là một trong những bệnh đáng sợ nhất. Nguyên nhân gây bại liệt: Do virus bại liệt xâm nhập vào cơ thể gây ảnh hưởng đến tế bào thần kinh vận động trong tủy sống. Tế bào này có chức năng dẫn truyền tín hiệu từ cơ bắp về lại bộ não, giúp điều khiển cơ bắp và kiểm soát khả năng vận động của cơ thể.
Khi đã bị bại liệt, người bệnh có thể phục hồi lại khả năng sử dụng cơ bắp nhưng bệnh sẽ làm tổn thương các dây thần kinh vận động. Theo thời gian, những dây thần kinh đó bị suy yếu dần và cơ bắp cũng yếu theo.
Nguyên nhân chính xác của hội chứng sau bệnh bại liệt là không rõ. Hiện nay, lý thuyết được chấp nhận nhất về nguyên nhân của hội chứng sau bệnh bại liệt dựa trên ý tưởng của thoái hóa tế bào thần kinh.
Khi poliovirus lây nhiễm cơ thể, nó ảnh hưởng đến tế bào thần kinh gọi là tế bào thần kinh vận động - đặc biệt là trong dây cột sống - mang thông điệp (điện xung) giữa não và cơ.
Tế bào thần kinh bao gồm ba thành phần cơ bản:
Tế bào thân.
Nhánh lớn (sợi trục).
Nhiều nhánh nhỏ (sợi nhánh).
Bệnh bại liệt thường gây phá hủy hoặc hư hại nhiều các tế bào thần kinh vận động. Để bù đắp cho sự thiếu hụt tế bào thần kinh, sợi mới mọc lên từ các tế bào thần kinh còn lại, và các đơn vị còn sống sót trở lên phì đại. Điều này thúc đẩy sự phục hồi sử dụng các cơ bắp, nhưng có gia tăng căng thẳng trên tế bào thần kinh để nuôi dưỡng các sợi bổ sung. Những căng thẳng này có thể nhiều hơn để các tế bào thần kinh có thể xử lý, dẫn đến sự suy giảm dần dần của các sợi bổ xung và cuối cùng là chính các tế bào thần kinh.

Các nhân viên y tế sẽ thực hiện một số bài tập tăng cường khả năng hoạt động của cơ bắp hiệu quả.
Một giả thuyết khác là bệnh ban đầu có thể đã tạo ra một phản ứng tự miễn dịch, làm cho hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các tế bào bình thường như thể chúng là chất ngoại lai. Một số chuyên gia tin rằng poliovirus có thể tồn tại trong cơ thể và kích hoạt lại vào những năm sau đó.
Các nghiên cứu ghi nhận là yếu tố có thể làm tăng nguy cơ của hội chứng sau bại liệt bao gồm:
Mức độ nghiêm trọng của bệnh bại liệt: Bệnh bại liệt do nhiễm trùng lúc đầu càng nặng thì khả năng xuất hiện triệu chứng của hội chứng sau bại liệt càng cao.
Tuổi tác: Nếu mắc bệnh bại liệt lúc còn là thanh thiếu niên hoặc đã là người lớn thì khả năng mắc hội chứng sau bại liệt càng cao.
Vận động mạnh quá mức: Việc tập thể dục quá sức làm cho các tế bào của thần kinh vận động từng bị tổn thương do bệnh bại liệt phải làm việc quá sức, từ đó tăng nguy cơ mắc hội chứng sau bại liệt cao hơn.
2. Triệu chứng hội chứng sau bại liệt
Hội chứng sau bệnh bại liệt dùng để chỉ một nhóm các dấu hiệu và triệu chứng xuất hiện - trung bình từ 30 đến 40 năm sau khi bệnh bắt đầu. Dấu hiệu và triệu chứng thường gặp bao gồm:
Đau yếu cơ, khớp tiến triển.
Mệt mỏi và kiệt sức với các hoạt động tối thiểu.
Teo cơ bắp.
Khó thở hoặc khó nuốt.
Rối loạn giấc ngủ liên quan đến hô hấp, chẳng hạn như ngưng thở khi ngủ.
Giảm dung nạp nhiệt độ lạnh.
Trong hầu hết mọi người, hội chứng sau bệnh bại liệt có xu hướng tiến triển từ từ, có dấu hiệu mới và các triệu chứng tiếp theo thời kỳ ổn định.
Nếu yếu hay mệt mỏi có vẻ như từ từ trở nên tệ hơn, hãy gặp bác sĩ. Điều quan trọng để loại trừ các nguyên nhân khác có dấu hiệu và triệu chứng có thể yêu cầu điều trị khác với những gì hiện đang có với hội chứng sau bệnh bại liệt.
3. Hội chứng sau bại liệt có lây không?
Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm virus cấp tính lây truyền theo đường tiêu hóa do virus Polio gây nên, thường từ phân – miệng, có thể lây lan thành dịch. Tuy nhiên, hội chứng sau bại liệt chưa rõ nguyên nhân nên không phải là bệnh lây nhiễm và hội chứng này không thể lây.
4. Phòng ngừa hội chứng sau bại liệt
Hội chứng sau bại liệt là các biến chứng xảy ra sau khi bị bại liệt vì vậy việc phòng ngừa chính là không để mắc bệnh bại liệt.
Để chủ động phòng chống bệnh bại liệt, Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần thực hiện tốt các khuyến cáo sau:
Phòng bệnh chủ động cho trẻ dưới 5 tuổi bằng uống vaccine phòng bệnh bại liệt ít nhất 3 lần theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
Người chăm sóc trẻ cần thường xuyên rửa tay với xà phòng, đặc biệt là khi cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh.
Thường xuyên lau sạch các bề mặt, vật dụng, đồ chơi, dụng cụ học tập, bàn ghế, sàn nhà bằng xà phòng hoặc các chất tẩy rửa.
Đảm bảo an toàn thực phẩm, sử dụng nguồn nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh, không phóng uế ra môi trường. Phân của trẻ em cũng phải được thu gom và đổ vào nhà tiêu hợp vệ sinh.
Khi trẻ có dấu hiệu sốt, buồn nôn, cứng gáy, đau chi và cơ bắp... cần đưa trẻ đến ngay các cơ sở y tế gần nhất để được khám, tư vấn và điều trị kịp thời.
5. Điều trị hội chứng sau bại liệt
Tùy từng trường hợp cụ thể mà các bác sĩ sẽ chỉ định phù hợp.
Sử dụng thuốc được chỉ định để giảm các triệu chứng như: Thuốc giảm đau cơ và khớp. Các phương pháp điều trị khác bao gồm thuốc chống co giật gabapentin, thường dùng để điều trị đau thần kinh. Thuốc giảm đau opioid thường không được sử dụng vì có nguy cơ lâu dài.
Tiết kiệm năng lượng hoạt động hằng ngày: Cần kết hợp giữa việc tập thể dục và nghỉ ngơi một cách hợp lý, tránh hoạt động mạnh quá sức. Ngoài ra, bạn có thể sử dụng một số dụng cụ hỗ trợ như gậy, khung tập đi, xe lăn, lắp đặt tay vịn trong nhà tắm... để giúp bạn đỡ mất sức hơn trong các hoạt động thường ngày.
Vật lý trị liệu: Các nhân viên y tế sẽ thực hiện một số bài tập tăng cường khả năng hoạt động của cơ bắp hiệu quả mà không làm các cơ hoạt động quá sức.
Trị liệu ngôn ngữ: Cải thiện được tình trạng khó nuốt, khó nói chuyện cho các cơ vùng miệng bị yếu.
Điều trị rối loạn giấc ngủ: Cải thiện tư thế ngủ như tránh nằm ngửa hoặc dùng máy mở đường thở cho bệnh nhân bị rối loạn hô hấp khi ngủ.
Tóm lại: Bệnh bại liệt có thể dẫn đến tử vong, nhờ có vaccine mà ngày nay số ca nhiễm chỉ còn rất ít. Tuy nhiên, những người từng mắc bại liệt khi còn nhỏ có nguy cơ bị hội chứng sau bại liệt. Hội chứng sau bại liệt hiếm khi gây tử vong nhưng có thể để lại nhiều biến chứng ảnh hưởng đến chức năng sống. Vì vậy, việc tuân thủ phòng bệnh bại liệt là vô cùng quan trọng, nếu có biểu hiện nghi ngờ mắc bệnh cần đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị.