Top 10 loài chim độc đáo làm bừng sáng ngày mới
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/2e36ffcecd8024de7d91.jpg)
Thế giới có rất nhiều loài động vật đa dạng sinh sống ở biển, đất và không khí. Tuy nhiên, trong số nhiều loài, hấp dẫn nhất là chim.
Có nhiều loài chim độc đáo, đầy màu sắc khác nhau mà có lẽ chúng ta chưa từng nghe đến. Dưới đây là 10 loài chim trông khá "kỳ quặc", giống như chúng đến từ một hành tinh khác hay trong những bộ phim khoa học viễn tưởng.
CHIM ÁC LÀ ĐÀI LOAN
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/0dd1d529e7670e395776.jpg)
Ác là Đài Loan (Urocissa caerulea) là một loài chim trong họ Corvidae. Đây là giống chim đặc hữu sống tại vùng núi ở Đài Loan (TQ).
Ác là Đài Loan có kích thước thân dài 65cm. Cánh dài 18 - 21cm và đuôi dài 40cm. Bộ lông của chim trống và chim mái trông như nhau. Đầu, cổ, ngực có màu đen; mắt có màu vàng; mỏ và chân có màu đỏ; phần còn lại của bộ lông có màu từ xanh da trời đậm đến màu tím. Loài chim này cũng có những mảng màu trắng trên cánh và đuôi.
Ác là Đài Loan không sợ con người. Chúng có thể được tìm thấy ở gần nơi cư trú của con người ở vùng núi hay vùng đất mới trồng. Loài chim này sinh sống thành bầy và bay lướt đi như con thoi trong rừng.
CHIM RUỒI ONG
Zunzuncito hay chim ruồi Helena (Mellisuga helenae) là một loài chim ruồi nhỏ nhất trên thế giới với chiều dài chỉ từ 5 - 6cm, cân nặng 1,6 - 2g. Đây là loài đặc hữu ở Cu Ba.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/10f0f008c2462b187257.jpg)
Là loài chim nhỏ nhất trên thế giới, không to hơn một con côn trùng lớn, gần như chỉ hơn một con ong. Giống như tất cả chim ruồi, nó là một loài bay nhanh và khỏe. Nó cũng có thể bay một chỗ như… máy bay trực thăng.
Chim ruồi ong đập cánh khoảng 80 lần mỗi giây, nhanh đến mức mắt con người nhìn thấy cánh chúng như một vệt mờ. Màu sắc rực rỡ óng ánh từ lông vũ của chim ruồi ong làm cho chúng có vẻ giống như một viên ngọc nhỏ. Màu ánh kim của chim không phải là luôn đáng chú ý, nhưng phụ thuộc vào góc mà một người nhìn vào chúng.
Mỏ nhọn và mảnh phù hợp cho việc hút mật sâu trong bông hoa, thức ăn chủ yếu là mật ong. Trong quá trình ăn, con chim đính phấn hoa trên mỏ và đầu. Một ngày, chim ruồi ong có thể "ghé thăm" 1.500 bông hoa.
Sử dụng các mạng nhện, vỏ cây và địa y, chim ruồi ong mái xây dựng một tổ hình chiếc tách với đường kính chỉ 2,5cm. Chim mái đan tổ bằng sợi thực vật mềm. Trong tổ này, trứng do chim mái đẻ không lớn hơn so với đậu Hà Lan. Con cái một mình ấp trứng và nuôi chim non.
CHIM HỒNG Y VÀNG
Là một loài chim Nam Mỹ trong họ chim sẻ Thraupidae. Loài chim này rất hiếm và chỉ có thể tìm thấy ở Nam Mỹ.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/2c84c27cf032196c4023.jpg)
Chim hồng y vàng được nhà điểu học người Pháp Louis Pierre Vieillot mô tả chính thức vào năm 1817 dưới tên khoa học Coccothraustes cristata. Mặc dù theo truyền thống được đưa vào họ Emberizidae, một nghiên cứu được công bố vào năm 2011 đã phát hiện ra rằng loài này có quan hệ họ hàng gần hơn với họ chim sẻ Thraupidae.
Môi trường sống tự nhiên của loài chim này là thảo nguyên khô, cây bụi ôn đới, cây bụi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và đồng cỏ ôn đới . Loài chim bị đe dọa bởi mất môi trường sống và từ những người bẫy “thú cưng” để bán. Con đực bị bẫy với tỷ lệ cao hơn con cái và chim hồng y vàng được coi là có nguy cơ tuyệt chủng do bị mắc bẫy liên tục.
Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chim hồng y vàng có khả năng thích nghi trong việc tạo ra tiếng hót với sự khác biệt nhỏ trong tiếng hót giữa 4 quần thể khác nhau.
CHIM THIÊN ĐƯỜNG SAXONY
Chim thiên đường vua Saxony (Pteridophora alberti) là một loài chim trong họ chim thiên đường (Paradisaeidae). Đây là thành viên duy nhất của chi Pteridophora, loài đặc hữu của rừng núi ở New Guinea.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/ec0118f92ab7c3e99aa6.jpg)
Chim thiên đường King of Saxony trưởng thành dài khoảng 22cm. Con trống có màu đen và vàng với mống mắt màu nâu sẫm. Chân màu nâu xám, mỏ đen với miệng há màu xanh nước biển tươi sáng cùng 2 chùm lông mày màu xanh men hình sò dài đáng kể (lên đến 50cm) có thể tự dựng lên theo ý muốn của chim.
Con mái không có lông có màu nâu xám với phần dưới có sọc. Bộ lông trang trí trên đầu của con đực kỳ lạ đến nỗi người ta đã nghĩ rằng nó là đồ giả.
Chim trống bảo vệ lãnh thổ của mình bằng cách đậu trên ngọn cây cao và từ những chỗ đậu này, chim trống hót để cạnh tranh với những con trống ở các lãnh thổ lân cận. Chim trống cũng bị săn bắt vì những chiếc lông vũ dài rất có giá trị của chúng được người bản địa sử dụng để trang trí nghi lễ, nhưng mặc dù vậy, loài này vẫn khá phổ biến ở một số vùng trong phạm vi phân bố của chúng.
Loài chim này ít được quan tâm nhất trong Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa và được liệt kê trong Phụ lục II của CITES.
QUETZAL RỰC RỠ
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/bdb0ba48880661583817.jpg)
Quetzal (Pharomachrus mocinno) là một loài chim nhỏ được tìm thấy ở Trung Mỹ và miền nam Mexico, sống trong các khu rừng nhiệt đới, đặc biệt là rừng mây trên núi. Chúng là một phần của họ Trogonidae và có 2 phân loài được công nhận là P. m. mocinno và P. m. costaricensis.
Giống như các loài quetzal khác, quetzal rực rỡ chủ yếu ăn tạp; chế độ ăn của chúng chủ yếu bao gồm các loại quả của các loài thực vật trong họ nguyệt quế, Lauraceae. Nhưng đôi khi chúng cũng săn côn trùng, thằn lằn, ếch và ốc sên.
Loài chim này nổi tiếng với bộ lông sặc sỡ và phức tạp, khác biệt đáng kể giữa các giới tính. Con trống có chùm lông màu xanh lục óng ánh, phần ngực, bụng dưới màu đỏ, cánh trong màu đen và phần dưới đuôi màu trắng.
Con mái xỉn màu và có đuôi ngắn hơn. Phần ngực dưới màu xám, bụng và mỏ, cùng với đầu màu xanh đồng là đặc điểm của con mái. Những con chim này khoét lỗ trên những thân cây mục nát hoặc sử dụng những lỗ do chim gõ kiến tạo ra làm tổ.
Quetzal là loài chim di cư theo độ cao, chúng di cư từ các sườn dốc đến tán rừng. Điều này xảy ra trong mùa sinh sản, thay đổi tùy theo địa điểm, nhưng thường bắt đầu vào tháng 3 và kéo dài đến tháng 8 trong năm.
Chim quetzal rực rỡ được coi là sắp bị đe dọa trong Sách đỏ IUCN, với sự phá hủy môi trường sống là mối đe dọa chính. Đây là loài động vật quốc gia của Guatemala, được mô tả trên lá cờ và huy hiệu; nó cũng được đặt tên cho đồng tiền của đất nước: Quetzal Guatemala.
CHIM HẢI ÂU MÀO
Còn được gọi là chim puffin mào, là một loài chim biển cỡ trung bình tương đối phổ biến trong họ auk (Alcidae) được tìm thấy trên khắp Bắc Thái Bình Dương. Chim puffin mào được nhà động vật học người Đức Peter Simon Pallas mô tả lần đầu tiên vào năm 1769.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/b524a4dc96927fcc2683.jpg)
Chim hải âu mào dài khoảng 35cm với sải cánh tương tự và nặng khoảng 0,7kg khiến chúng trở thành loài chim lớn nhất trong tất cả các loài chim hải âu. Quần thể chim ở phía tây Thái Bình Dương lớn hơn một chút so với quần thể chim ở phía đông Thái Bình Dương và chim trống có xu hướng lớn hơn chim mái.
Chúng chủ yếu có màu đen với một mảng trắng trên mặt và đặc trưng của các loài chim biển khác, có một cái mỏ rất dày, chủ yếu là màu đỏ với một số mảng màu vàng, đôi khi là màu xanh lá cây. Đặc điểm nổi bật nhất và cũng là tên gọi của chúng là các chùm lông màu vàng xuất hiện hàng năm trên các loài chim của cả 2 giới khi mùa sinh sản đến gần.
Bàn chân của loài chim này trở nên đỏ tươi và khuôn mặt của chúng cũng có màu trắng sáng vào mùa hè. Trong mùa kiếm ăn, các chùm lông rụng và bộ lông, mỏ, chân mất đi phần lớn độ bóng của chúng.
Cánh tương đối ngắn, thích nghi với việc lặn, bơi dưới nước và bắt mồi hơn là lướt, do đó chúng có cơ ngực dày, sẫm màu giàu myoglobin thích nghi với nhịp đập cánh nhanh, mạnh.
CHIM RUỒI HOÀNG GIA AMAZON
Là một loài chim trong họ Tyrannidae. Loài này được tìm thấy trong rừng trên hầu hết lưu vực Amazon ở phía bắc Bolivia, phía đông Peru, phía đông Ecuador, phía đông Colombia, Venezuela, Guianas và phía bắc - phía tây Brazil.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/2a0337fb05b5ecebb5a4.jpg)
Những con chim ruồi hoàng gia của Amazon có chiều dài 15 - 17,5cm, nặng từ 9,7 - 14g và thích phóng ra khỏi cành để bắt côn trùng bay hoặc bắt chúng từ lá. Có màu nâu sẫm ở trên và màu vàng nâu sẫm ở dưới. Mông và đuôi có màu quế đỏ. Mỏ dài và rộng. Nó có mào hình quạt cương cứng có màu đỏ ở con đực và màu vàng cam ở con cái.
Mùa sinh sản của loài chim bắt ruồi hoàng gia Amazon chưa được xác định. Tổ của chúng dài và hẹp, đôi khi dài tới 2m, được treo trên cành cây hoặc dây leo, thường ở trên mặt nước. Một lứa gồm 2 trứng; chỉ có chim mái ấp trứng và cho chim non ăn.
Đây là loài chim dễ nhận biết nhất bởi bộ lông sặc sỡ giống như mũ miện hoặc vương miện của một thủ lĩnh.
CHIM MỎ SỪNG MŨ SẮT
Là một loài chim rất lớn trong họ chim mỏ sừng. Loài chim này được tìm thấy ở bán đảo Mã Lai, Sumatra, Borneo, Thái Lan và Myanmar.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/01e32f1b1d55f40bad44.jpg)
Không giống như bất kỳ loài chim mỏ sừng nào khác, phần mũ sắt gần như rắn chắc và được sử dụng trong các cuộc chiến đầu đối đầu giữa những con chim mỏ sừng đực. Người Punan Bah tin rằng, một con chim mỏ sừng mũ sắt lớn sẽ canh giữ dòng sông giữa ranh giới sự sống và cái chết.
Loài chim này có bộ lông màu đen, ngoại trừ bụng và chân có màu trắng và đuôi có màu trắng với một dải đen gần đầu mỗi chiếc lông. Đuôi dài và 2 chiếc lông đuôi ở giữa dài hơn nhiều so với những chiếc khác, khiến cho loài chim này có chiều dài tổng thể lớn hơn bất kỳ loài mỏ sừng nào khác.
Chiều dài cơ thể là 110 - 120cm, không tính lông đuôi, giúp tăng chiều dài thêm 50cm. Một con trống nặng khoảng 3kg trong khi 2 con mái trung bình nặng khoảng 2,7kg.
Tiếng kêu của chúng gồm 2 phần, phần đầu tiên bao gồm một loạt tiếng hú lớn, ngắt quãng giống như tiếng chim cu gáy, đôi khi có 2 tông và có hơn 2 chục tiếng, nghe giống như tiếng "toop" hoặc "took" của một chiếc rìu. Những tiếng hú này dần tăng tốc đến đỉnh điểm trong tiếng kêu khàn khàn.
Vì tiếng kêu này, mỏ sừng mũ sắt còn được gọi trong tiếng Mã Lai là loài chim "Giết mẹ vợ" (Tebang Mentua). Sau áp lực săn bắt liên tục và mất môi trường sống, loài mỏ sừng mũ cát đã được đưa từ loài gần bị đe dọa lên loài cực kỳ nguy cấp trong Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa vào năm 2015.
CHIM SẺ MÁ ĐỎ
Cordon-Bleu má đỏ (Uraeginthus bengalus) là một loài chim sẻ nhỏ trong họ Estrildidae. Loài chim sẻ này sinh sản thường trú ở các vùng khô hạn của châu Phi cận Sahara nhiệt đới.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/29d3132b2165c83b9174.jpg)
Giống như các thành viên khác trong chi của nó, chim sẻ má đỏ cordon-bleu là loài nhỏ, chỉ dài 12,5 - 13cm. Nặng trung bình 9,9g với mức cực đại đã biết trong quần thể hoang dã dao động từ 8,9 - 11g.
Con trống trưởng thành có phần trên màu nâu đồng nhất, ngực, 2 bên sườn và đuôi màu xanh lam nhạt, bụng màu vàng. Có một mảng đỏ trên mỗi má, nhưng hiếm khi có màu cam hoặc thậm chí là vàng. Con mái tương tự nhưng xỉn màu hơn và không có đốm má. Chim non giống như con mái, nhưng có màu xanh lam giới hạn ở mặt và cổ họng.
Tiếng gọi tiếp xúc của nó là một tiếng kêu mỏng, the thé, thường lặp lại và được phiên âm khác nhau là siii siii hoặc tsee tsee. Chim sẻ má đỏ cordon-bleu được cho là "một trong những loài chim sẻ kỳ lạ phổ biến nhất".
Mặc dù không có yêu cầu về nhà ở đặc biệt nhưng thói quen đậu trên cành cây hở (thay vì trong tổ hoặc khu vực được bảo vệ khác) khiến nó nhạy cảm với nhiệt độ thấp. Trong mùa sinh sản, những con chim trống bị nuôi nhốt trở nên rất hung dữ với nhau và những con chim bị quấy rầy trong quá trình ấp trứng thường sẽ rời khỏi tổ.
CHIM TRĨ TEMMINCK
Trĩ Temminck (Tragopan temminckii) là một loài chim trĩ cỡ trung, dài khoảng 64cm, thuộc chi Tragopan.
![](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_14_341_51475324/c2eb8a13b85d5103084c.jpg)
Chim trống là loài chim chắc nịch màu đỏ và cam với bộ lông đốm trắng, mỏ đen, chân hồng. Các đặc điểm biểu hiện của chim trống bao gồm da mặt màu xanh trần, vây và sừng màu xanh đậm có thể thổi phồng. Chim mái là loài chim nâu đốm trắng với da mắt tròn màu xanh.
Ngoại hình của loài này giống với loài satyr tragopan nhưng không giống như loài sau, nó có bộ lông toàn thân màu đỏ và cổ màu cam. Thức ăn chủ yếu là quả mọng, cỏ và thực vật.
Chim tragopan Temminck được tìm thấy ở khắp các dãy núi thuộc vùng đông bắc Ấn Độ, miền trung Trung Quốc, miền bắc Myanmar. Là loài phổ biến và phân bố rộng rãi trong phạm vi môi trường sống rộng lớn của mình, chim tragopan Temminck được đánh giá là loài ít quan tâm trong Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa.
Tên gọi thông thường và tên gọi Latin của loài chim này được đặt để tưởng nhớ nhà tự nhiên học người Hà Lan Coenraad Jacob Temminck.