Thu hơn 405 tỷ USD năm 2024, xuất khẩu Việt Nam có cơ hội bứt phá lớn
Các chuyên gia cho rằng căng thẳng thương mại Mỹ - Trung Quốc mở ra cơ hội cho sản xuất và xuất khẩu Việt Nam, nhưng đi kèm là thách thức về chi phí và giám sát thương mại.
![Xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ảnh: Unsplash.](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_15_119_51483637/c48fe92cda62333c6a73.jpg)
Xuất khẩu sang thị trường Mỹ hiện chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Ảnh: Unsplash.
Các chuyên gia tại Đại học RMIT đánh giá năm 2018, cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã buộc nhiều chuỗi cung ứng toàn cầu phải thay đổi chiến lược. Thay vì tập trung vào một mạng lưới toàn cầu, các doanh nghiệp đã chuyển sang mô hình khu vực hóa. Trong đó, ưu tiên giảm rủi ro và tăng khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng, thay vì chỉ tập trung vào việc tối ưu chi phí.
Còn trong bối cảnh hiện tại, các mức thuế quan được Mỹ và Trung Quốc công bố mới đây cũng cho thấy các biện pháp bảo hộ có thể gây ra tác động lên các chuỗi cung ứng.
Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ
Theo Tiến sĩ Nguyễn Sơn, Giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics Đại học RMIT, tác động về chi phí có thể lớn, gây nguy cơ giá cả leo thang trong các ngành công nghiệp bị áp thuế và cả các ngành có liên quan như vật liệu, năng lượng, ôtô và điện tử.
“Điều này tạo ra gián đoạn ngắn hạn và chi phí vận hành cao hơn nhưng cũng mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường và các trung tâm sản xuất mới ra đời. Các quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, có thể tận dụng chính từ sự thay đổi này trong nhiều chuỗi cung ứng khác nhau”, Tiến sĩ Sơn nói.
Hiện các doanh nghiệp đang tích cực mở rộng sản xuất ra ngoài Trung Quốc nhằm giảm rủi ro địa chính trị trong chuỗi cung ứng.
“Xét cho cùng, việc đa dạng hóa các địa điểm sản xuất và nhà cung cấp góp phần tăng cường khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng bằng cách giảm phụ thuộc quá mức và tạo ra các mạng lưới linh hoạt hơn”, Tiến sĩ Sơn nhận định.
Việc Mỹ tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc tạo ra cơ hội cho các doanh nghiệp toàn cầu, trong đó có doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu, theo Tiến sĩ Irfan Ulhaq, Giảng viên ngành Quản lý chuỗi cung ứng và logistics Đại học RMIT.
Người mua tại Mỹ đang tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế và những ngành sản xuất thế mạnh của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử, dệt may, giày dép và đồ nội thất có thể trở thành đối thủ cạnh tranh hàng đầu.
![Tiến sĩ Nguyễn Sơn, Tiến sĩ Irfan Ulhaq, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (từ trái qua phải). Ảnh: RMIT.](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_15_119_51483637/24921231217fc821916e.jpg)
Tiến sĩ Nguyễn Sơn, Tiến sĩ Irfan Ulhaq, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng (từ trái qua phải). Ảnh: RMIT.
Các hiệp định thương mại và năng lực sản xuất hiệu quả về mặt chi phí của Việt Nam mang lại lợi thế cạnh tranh để đảm bảo duy trì hợp đồng dài hạn với các nhà nhập khẩu Mỹ.
Tiến sĩ Irfan Ulhaq cũng đánh giá cao Nghị định 182/2024 của Chính phủ nhằm khởi động Quỹ hỗ trợ đầu tư để thúc đẩy đầu tư công nghệ cao, bao gồm cả chất bán dẫn, trí tuệ nhân tạo (AI) và R&D. Các ưu đãi theo nghị định này cung cấp thêm hỗ trợ tài chính cho việc mở rộng, đổi mới và tiến bộ công nghệ, giúp các doanh nghiệp đảm bảo vị thế của mình trên thị trường Mỹ.
Cần nỗ lực hơn trong đa dạng chuỗi cung ứng
Dù vậy, thực tế hiện nay, Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sang Mỹ (hiện chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam) khiến dòng chảy thương mại dễ chịu tổn thương bởi những thay đổi chính sách thuế quan của Mỹ.
Một rủi ro khác là chi phí nguyên liệu thô tăng do gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, có thể làm tăng chi phí sản xuất và làm giảm khả năng cạnh tranh xuất khẩu.
“Để duy trì tăng trưởng bền vững, Việt Nam nên coi những biến động thuế quan sắp tới là động lực để phát triển khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng của mình”, Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Chủ nhiệm cấp cao bộ môn Quản lý chuỗi cung ứng và logistics Đại học RMIT nhận định.
Theo ông, khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Việt Nam chứng minh được tính nguyên bản của sản phẩm.
Điều này đặc biệt quan trọng khi Mỹ và các thị trường toàn cầu ngày càng giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động trung chuyển, nơi hàng hóa được đóng gói lại hoặc dán nhãn lại tại Việt Nam để tránh thuế đối với các sản phẩm Trung Quốc.
“Cuộc thương chiến có thể mang đến cho Việt Nam cơ hội tái cấu trúc các chuỗi cung ứng. Sẽ không bền vững nếu chỉ trở thành trạm trung chuyển cho khâu đóng gói đơn giản. Thay vào đó, Việt Nam cần nhiều nỗ lực hơn để triển khai các quy trình công nghệ mang lại giá trị gia tăng”, Tiến sĩ Hùng nhấn mạnh.
![Người mua tại Mỹ đang tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế và những ngành sản xuất thế mạnh của Việt Nam có thể trở thành đối thủ cạnh tranh hàng đầu. Ảnh: Nam Khánh.](https://photo-baomoi.bmcdn.me/w500_r1/2025_02_15_119_51483637/1cc029631a2df373aa3c.jpg)
Người mua tại Mỹ đang tìm kiếm các nhà cung cấp thay thế và những ngành sản xuất thế mạnh của Việt Nam có thể trở thành đối thủ cạnh tranh hàng đầu. Ảnh: Nam Khánh.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Sơn, Việt Nam cần theo đuổi một chiến lược cân bằng, độc lập và đa chiều để tận dụng các cơ hội mà vẫn quản lý được các rủi ro liên quan.
Bài học từ quá khứ đối với Việt Nam là nên sàng lọc cẩn thận dòng vốn FDI để đảm bảo thu hút đầu tư chất lượng, mang lại cơ hội chuyển giao công nghệ và công việc đòi hỏi tay nghề cao, thay vì chấp nhận các doanh nghiệp lạc hậu hoặc gây ô nhiễm đang tìm cách di dời khỏi bản địa.
Bên cạnh đó, cần phải đẩy nhanh phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực vận tải và logistics. Nếu không giải quyết được những khoảng trống này, Việt Nam có nguy cơ mất cơ hội vào tay các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực.
Việt Nam cần mở rộng đào tạo kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu sản xuất giá trị cao hơn, ưu tiên phát triển nhân lực có năng suất và năng lực đổi mới cao hơn trong bối cảnh công nghệ AI đang nở rộ, đặc biệt là trong các lĩnh vực mới nổi như chất bán dẫn.
“Bằng cách này, Việt Nam có thể định vị tốt hơn để hưởng lợi từ sự thay đổi chuỗi cung ứng trong khi xây dựng một nền kinh tế bền vững, cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị thay vì chỉ đóng vai trò là một giải pháp thay thế sản xuất chi phí thấp”, Tiến sĩ Sơn kết luận.