Quảng Văn Đình và Phu Văn Lâu - những 'tòa công báo' thời xưa
Thời xưa, chưa có báo chí, thông tin từ triều đình ban bố cho nhân dân đều phải có người đi gọi loa tay truyền đạt. Những văn bản quan trọng đều được sao chép đem về treo tại thành trấn các địa phương để người dân đọc, còn ở kinh đô, bản chính được đem treo tại những tòa đình, lầu trang trọng.
Những tòa đình, lầu treo chiếu chỉ của nhà vua thời xưa, có vị trí quan trọng như những tòa công báo thời kỳ đầu của các chính quyền dân chủ, hay toàn bộ hệ thống truyền thông của chính quyền thời nay.
Ngày nay, chúng ta còn duy trì được tòa Phu Văn Lâu của chính quyền nhà Nguyễn xây dựng tại kinh đô Huế. Hình ảnh tòa lầu này được in trên tờ tiền 50.000 đồng chúng ta đang sử dụng. Trước đó, từ thời nhà Lê, sử sách ghi lại cho biết, ở cửa Nam kinh thành Thăng Long, Vua Lê Thánh Tông cho dựng tòa Quảng Văn Đình, với công dụng tương tự.
Ngược về trước nữa, có tài liệu cho biết tại vị trí xây Quảng Văn Đình, thời Lý cũng có một kiến trúc với công dụng tương tự mang tên Trữ Văn Đình (đình lưu trữ văn chương), nhưng ngày nay không còn nhiều thông tin.
Đình Quảng Văn thời Lê
Về Quảng Văn Đình, bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú chép lại bài ký ghi về việc xây đình này của tiến sĩ Bùi Xương Trạch, viết năm Hồng Đức thứ 24 (1489), theo lệnh Vua Lê Thánh Tông, kể về nguyên nhân xây công trình này như sau:
“Nay nhà vua lo rằng chính sự nhiều, thần dân đông, không thể bảo tận mặt, nói tận tai được, nên mới gọi các thợ vẽ kiểu mẫu, dùng tài ông Thùy, khéo ông Thâu (tên hai người thợ giỏi thời xưa) xây dựng ngôi đình ở trong cửa Đại Hưng làm chỗ dán các giấy má nói về công việc chính trị của vua. Địa thế chỗ ấy thì lầu Phượng dựng ở trước, thành Long bọc quanh ở ngoài, ngòi Bích Câu ở ngang đường quanh vòng tả hữu. Thế là chỗ xem đọc đã có nơi”.
Như vậy, Đình Quảng Văn đặt ở trong cửa Đại Hưng, tức cửa Đông Nam của kinh thành Thăng Long, vị trí vào khoảng vườn hoa Cửa Nam ngày nay, có ngòi Bích Câu ở khu vực Thịnh Hào, Hào Nam chạy vòng quanh.
Về hình thức của ngôi đình cũng được Bùi Xương Trạch mô tả chi tiết như sau: “Cột rất cao, chạm đục thưa thớt. Dẫu thấp mà không xấu xí, dẫu đẹp mà không lộng lẫy. Thế là mẫu mực được vừa phải. Khi xây xong, vua đặt tên là đình Quảng Văn”.
Công dụng của ngôi đình cũng được vị quan từng làm việc ở Viện Hàn lâm ghi lại cụ thể: “Mỗi khi triều đình ban phát hiệu lệnh mới, như là trù tính việc quân, việc nước, bày tỏ nghi văn về lễ nghĩa, chính lệnh của các quan, công việc của dân chúng, việc gì cũng nhờ đó mà mỗi ngày thêm sáng tỏ. Cốt là để cho sự tai nghe mắt thấy của muôn phương thêm mới ra mà biểu hiện văn minh trong một đời chứ không phải làm ra để bỏ không. Đương khi pháp lệnh mới làm xong, ai xem cũng đều ngưỡng mộ chế độ mới, thấy nó rực rỡ như đám mây”.
Bài ký của Bùi Xương Trạch cũng xác định, đình Quảng Văn treo các văn bản của triều đình sẽ giúp các quan tuân theo phép tắc, biết học hỏi, khuyên răn lẫn nhau. Còn đối với dân chúng thì được hưởng các lợi ích: “Dân nghe “đức hóa” mà vui mừng, vâng theo “đức âm” mà cổ vũ, trông thịnh trị hòa vui như vua của nhà Ngu, xem chính sách rộng lớn như của nhà Hán, ai cũng vui mừng, hớn hở. Thế thì dựng lên đình này là để thêm phần thịnh trị để cho cơ nghiệp được vững bền...”.
Ý nghĩa của việc công bố chính lệnh đến dân chúng được đúc kết rằng: “Người trong nước ai cũng nói: “Lời nói của vua thực là to tát, lòng vua trước sau như một”. Nhờ đó lễ giáo truyền đi mọi nơi không chỗ xa nào là không tới. Thế thì đình này đặt tên là Quảng Văn để làm “quy giám” cho muôn đời” (“quy” là con rùa, lấy mu để bói, ”giám” là gương để soi, ý nói làm mẫu mực cho đời sau).
Theo “Lịch triều hiến chương loại chí” thì sau khi Vua Lê Thánh Tông đọc bài ký, đã đặc biệt khen thưởng Bùi Xương Trạch.
Sau này, đình Quảng Văn là nơi yết thị bảng vàng ghi danh các tiến sĩ thời Lê. Nhưng, năm Hồng Đức thứ 24 (1489), vào tháng 5 âm lịch, thì đình này có lẽ chưa dựng xong, nên bảng vàng ghi danh tiến sĩ khoa thi năm đó được đem treo ở ngoài cửa Đông Hoa, tức cửa Đông thành Thăng Long. Theo các tài liệu sau này, thời Nguyễn, Quảng Văn Đình được đổi tên thành đình Minh Chiêu rồi Quảng Minh, dùng làm nơi niêm yết giấy tờ của trấn, rồi tỉnh Hà Nội.
Phu Văn Lâu thời Nguyễn
Cũng có vai trò như Quảng Văn Đình ở Thăng Long, là Phu Văn Lâu ở kinh thành Phú Xuân của nhà Nguyễn, đặt ở mặt trước kinh thành, sát bờ sông Hương.
Bộ sử “Đại Nam thực lục” của triều Nguyễn cho biết, tại vị trí này, trước đó triều đình cho “đặt bảng đình, các chiếu thư dụ chỉ đem bá cáo thì treo yết ở đó”, đến tháng 6 năm Gia Long thứ 18 (1819), mới dựng ngôi lầu Phu Văn.
Về quy cách, Phu Văn Lâu là ngôi nhà 2 tầng, tầng dưới chỉ có cột mà không có tường, quay mặt về hướng Nam. Hai bên lầu có đặt 2 tấm bia đá khắc 4 chữ "khuynh cái hạ mã", nghĩa là ai đi qua đều phải cởi mũ và xuống ngựa để tỏ lòng tôn trọng.
Tháng Giêng năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triều đình bắt đầu chuẩn định, rằng từ đó về sau, các chiếu văn đều phải niêm yết ở lầu Phu Văn. Các chiếu thư được tuyên đọc ở Ngọ Môn hoặc điện Thái Hòa sẽ được đặt trên long đình, có che lọng và quân lính theo hầu hai bên để đưa ra niêm yết tại Phu Văn Lâu. Các tri huyện 2 huyện trong kinh kỳ phải dẫn kỳ lão, hương lý và thân hào đến trước lầu để lạy xem. Cũng năm đó, Vua Minh Mạng cho mở ân khoa thi Hội và định phép thi, đến kỳ đệ tứ thì dâng những quyển trúng để lấy số trúng cách, sau đó, làm danh sách đệ tâu và yết bảng ở lầu Phu Văn.
Năm sau, Vua Minh Mạng cho định lại phép thi Điện (như thi Đình thời xưa), sau khi chấm thi, xét duyệt thứ bậc những người đỗ tiến sĩ, triều đình cũng sẽ đặt đại triều nghi ở điện Thái Hòa để truyền lô xướng danh, treo bảng vàng ở lầu Phu Văn trong thời gian 3 ngày rồi đệ đến cất bảng ở học đường Quốc Tử Giám. Sau khi phát bảng 2 ngày, vua ban yến cho các tiến sĩ ở công đường Bộ Lễ, cho trâm và hoa lụa cùng cờ biển vinh quy.
Có một sự việc diễn ra vào mùa xuân năm Minh Mạng thứ 5 (1824), cho thấy việc niêm yết chỉ dụ tại Phu Văn Lâu nghiêm túc thế nào. Chuyện này được ghi lại trong “Đại Nam thực lục” rằng viên Thiêm sự Bộ Hộ (hàm tứ phẩm) là Hoàng Công Dương bị giáng xuống làm Chánh bát phẩm Thư lại ở Khâm Thiên Giám. Nguyên trước đó có tờ dụ niêm yết ở lầu Phu Văn, người coi giữ không cẩn thận để rách. Hoàng Công Dương nhận lời nhờ muốn tha tội cho người lính canh, nhưng sự việc bị phát giác. Nghe sự việc, Vua Minh Mạng dụ Bộ Hình rằng: “Công Dương do nghề mọn xuất thân, quan đến tứ phẩm, lại chẳng nghĩ giữ mình cho sạch, cam chịu nhơ bẩn thì phép nước ơn vua nó đã không để bụng vậy”. Sau đó, nhà vua sai lột bỏ mũ áo ông này, giao vệ Cẩm y đóng gông đợi xét, về sau là giáng chức.
Cũng năm đó, Bộ Lễ tâu rằng từ trước đến nay, vào các ngày khánh tiết, nhà vua ban ân chiếu, đưa ra niêm yết ở lầu Phu Văn, các nghi tiết như trước lầu viên quân sắp hàng coi giữ, các phụ lão ở kỳ điện đứng đợi chiêm bái và nhân dân địa phương vui mừng, bày tạ, vẫn còn thiếu sót; nên xin vua cho định lại lễ nghi.
Sau đó, quy định về việc rước ân chiếu ra niêm yết tại Phu Văn Lâu được định lại rằng, tờ chiếu nói việc về bộ nào thì trước kỳ cho Bộ Lễ biết để phái Loan nghi sắp sẵn 2 cái tán vàng đứng đợi ở hai bên Đông Tây dưới thềm điện Thái Hòa; 20 lính đội Thị trung cầm gậy đỏ và 10 lính vệ Cẩm y đeo gươm cùng đứng đợi ở ngoài ban tả; 1 Cai đội Thần sách đem 90 lính cầm giáo đứng hai bên trước sân lầu Phu Văn; các viên huyện phủ Thừa Thiên đều đem những hương thân phụ lão đứng đợi chiêm bái.
Đến ngày rước chiếu, hữu ty đem tờ chiếu để vào ống Kim Phượng đặt trên án vàng trước ngai ngự ở điện Thái Hòa; rước vua lên điện; trăm quan làm lễ khánh hạ như nghi tiết; một viên đường quan mang ống Kim Phượng, theo thềm giữa đi xuống; 2 cái tán vàng theo hai bên tả hữu đường để che đi đến ngoài tả ban; binh lính vác gậy đỏ đi trước, lính đeo gươm đi sau cho đến lầu Phu Văn. Tàn lọng nghi trượng bày hàng hai bên tả hữu trước sân. Viên đường quan dán treo xong, lạy 5 lạy, lùi ra đứng ở bên tả; các viên huyện đem hương thân kỳ lão lạy 5 lạy; lễ xong tàn lọng nghi trượng đều lui thì lính đội Thần sách kính cẩn canh giữ.
Chiều ngày hôm sau tàn lọng nghi trượng quân lính lại sắp hàng ở trước lầu Phu Văn. Một viên bộ ty mặc áo mũ lạy 5 lạy, vâng lấy chiếu văn treo hôm trước bỏ vào ống Kim Phượng rồi đem giao cho Văn thư phòng nhận lấy. Phủ Thừa Thiên cứ tình hình nhân dân vui mừng làm tờ bày tạ, do Bộ Lễ đề tâu thay xin làm lễ tạ ân. Còn với các ân chiếu tuyên bố, không phải là lễ tiết khánh hạ, thì việc quan hệ đến bộ nào, bộ ấy chỉ phái một viên ty thuộc mặc phẩm phục lĩnh đem niêm yết, các tiết như nghi trượng rước đi cùng hôm sau cất đi, đều như trên.
Ngoài ra, với các thành, dinh, trấn trong cả nước, mỗi khi có ân chiếu đến thì chiếu theo nghi chú mà đón tiếp, đều phải sao chiếu chỉ vào giấy vàng gửi đến các nha trong hạt tuân phụng, cũng cứ theo tình trạng vui mừng của nhân dân làm tập tâu bày tạ. Nếu không phải là chiếu về việc cho miễn tô thuế thì sẽ được bỏ tiết bày tạ.