Doanh nghiệp thủy sản tăng xuất khẩu Mỹ trước khi thuế quan hiệu lực
Trong 4 tháng đầu năm, xuất khẩu thủy sản Việt Nam ghi nhận phục hồi mạnh mẽ, đạt kim ngạch 3,3 tỷ USD, tăng 21% so với cùng kỳ năm 2024.

Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đang tăng tốc xuất khẩu sang Mỹ. Ảnh: VASEP.
Theo số liệu từ Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), riêng tháng 4, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đã đạt 850,5 triệu USD, tăng 10%.
Dù vậy, bức tranh xuất khẩu không đồng đều giữa các sản phẩm và thị trường, trong bối cảnh bất ổn về thuế quan đối ứng từ Mỹ tạo ra nhiều thách thức.
Xuất khẩu sang Mỹ sụt giảm
Số liệu 4 tháng đầu năm cho thấy Trung Quốc và Hong Kong (Trung Quốc) là thị trường dẫn đầu về tiêu thụ thủy sản Việt Nam, đạt 709,8 triệu USD, tăng 56% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng tháng 4, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường này thu về 182,3 triệu USD (+29%), chủ yếu nhờ nhu cầu tôm, cua ghẹ và nhuyễn thể phục vụ phân khúc cao cấp.
Nhật Bản đứng thứ hai với kim ngạch đạt 536,6 triệu USD (+22%). Trong khi đó, EU và Hàn Quốc cũng cho thấy tiềm năng với kim ngạch lần lượt 351,5 triệu USD (+17%) và 264,1 triệu USD (+15%), đặc biệt nhờ các chính sách thuế quan ưu đãi từ EVFTA.
Đáng chú ý, xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ đã giảm 15% trong tháng, đạt 498,4 triệu USD. Đà suy giảm này đã phản ánh tác động của chính sách thuế quan đối ứng hiện tại từ Mỹ. Đây cũng là nguyên nhân làm xáo trộn các hoạt động xuất khẩu.
Chính sách thuế đối ứng của Mỹ, cùng mức thuế chống bán phá giá một số mặt hàng đang tạo áp lực lớn lên xuất khẩu thủy sản Việt Nam.
Các mặt hàng vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường này như cá tra và tôm đều chịu ảnh hưởng.
“Thuế quan làm tăng giá thành sản phẩm, khiến các nhà nhập khẩu Mỹ cân nhắc chuyển hướng sang các nguồn cung khác như Ấn Độ hay Ecuador. Các rào cản kỹ thuật, như kiểm tra an toàn thực phẩm và yêu cầu truy xuất nguồn gốc khắt khe, cũng làm giảm lợi thế cạnh tranh của Việt Nam”, VASEP nhận định.
Tuy nhiên, Hiệp định CPTPP và các FTA khác đang giúp Việt Nam giảm thiểu tác động tiêu cực bằng cách mở rộng thị trường sang EU, Nhật Bản và ASEAN.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang điều chỉnh chiến lược, tập trung vào sản phẩm giá trị gia tăng và đa dạng hóa thị trường để giảm phụ thuộc vào Mỹ.
Con tôm là điểm sáng
Trong bối cảnh trên, tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực đóng góp vào sự tăng trưởng của ngành thủy sản, với kim ngạch đạt 1,27 tỷ USD trong 4 tháng đầu năm, tăng 30% so với cùng kỳ.
Xuất khẩu tôm riêng tháng 4 cũng tăng 15%, đạt 330,8 triệu USD. Đà tăng trưởng này đến từ nhu cầu mạnh mẽ tại các thị trường lớn như Trung Quốc, EU và Nhật Bản, cùng với giá tôm dần phục hồi do tái cân bằng cung cầu toàn cầu.
Trong khi đó, xuất khẩu cá ngừ sụt giảm trong tháng 4, thu về 76,1 triệu USD (-12%). Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu - đặc biệt do quy định kích thước tối thiểu cá ngừ vằn đã hạn chế sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này.
Ngược lại, các mặt hàng như cá rô phi và cá diêu hồng lại tăng trưởng đột phá lên 138% và chạm mốc 19 triệu USD.
Nhuyễn thể (chân đầu, có vỏ) và cua, ghẹ cũng ghi nhận tăng trưởng ấn tượng khi lần lượt đạt 216,4 triệu USD (+18%), 83,1 triệu USD (+82%) và 112,1 triệu USD (+50%). Các con số ấn tượng này đến từ nhu cầu tăng cao tại thị trường Trung Quốc và ASEAN.
VASEP dự báo trong 2 tháng tới, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ, trước khi chính sách thuế quan đối ứng mới của Mỹ có hiệu lực từ ngày 9/7.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng tập trung đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ đối với các sản phẩm chủ lực như tôm và cá tra, nhằm tận dụng tối đa giai đoạn trước khi thuế quan mới làm tăng chi phí.
Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ có thể tăng 10-15% so với tháng 4 nhờ các hợp đồng được ký kết gấp rút và chiến lược giảm giá để duy trì thị phần.
Ngược lại, hoạt động xuất khẩu sang các thị trường khác như Trung Quốc và ASEAN có khả năng chững lại, với mức tăng trưởng chỉ khoảng 3-5%.
Nguyên nhân đến từ sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ sản phẩm thủy sản Trung Quốc. Đây là các mặt hàng vốn bị áp thuế cao tại Mỹ và buộc phải chuyển hướng sang thị trường nội địa cũng như các thị trường lân cận như ASEAN.
“Sự cạnh tranh này sẽ làm giảm sức hút của sản phẩm Việt Nam, đặc biệt ở phân khúc giá rẻ. EU và Nhật Bản có thể duy trì tăng trưởng ổn định khoảng 8-10%, nhờ lợi thế từ các Hiệp định thương mại tự do, nhưng không đủ bù đắp sự chững lại ở Trung Quốc và ASEAN”, VASEP cho hay.