Chọn lối đi nào để kinh tế bứt phá tăng trưởng 2 con số?

TS. Huỳnh Thế Du, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, đổi mới sáng tạo chính là chìa khóa đưa Việt Nam bước vào nhóm các quốc gia thu nhập cao trong bối cảnh các động lực tăng trưởng cũ đã dần suy yếu.

Hai động lực tăng trưởng chính

Đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, Việt Nam đang đứng trước bài toán tăng trưởng kinh tế hơn 8% năm nay và hai con số từ năm sau. Ông đánh giá như thế nào về mục tiêu này trong bối cảnh kinh tế trong nước và toàn cầu như hiện nay?

TS. Huỳnh Thế Du: Có thể thấy rất rõ mục tiêu tăng trưởng trở thành nước phát triển, càng sớm càng tốt của Việt Nam trong hai thập kỷ tới. Đó chính là lý do khiến kinh tế Việt Nam buộc phải tăng trưởng hai con số nếu muốn trở thành đất nước có thu nhập cao vào năm 2045.

Đây là khát vọng rất lớn, nhưng cũng là mục tiêu đầy thách thức. Muốn đạt được, Việt Nam phải phát huy cao nhất có thể sức mạnh của cả dân tộc, tối ưu hóa các nguồn lực và tiềm năng phát triển của mình.

Trong quá khứ, mặc dù giai đoạn đầu, sau Đổi mới, khi bắt đầu chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường, nền kinh tế thường dễ có bước tăng trưởng nhảy vọt, song Việt Nam chưa bao giờ đạt được mức tăng trưởng hai con số.

Hiện thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt gần 5.000USD, chính vì vậy, để đạt mức tăng trưởng cao sẽ càng thách thức hơn nhiều.

TS. Huỳnh Thế Du, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam.

TS. Huỳnh Thế Du, giảng viên Trường Chính sách công và quản lý, Đại học Fulbright Việt Nam.

Nhìn vào các yếu tố động lực của tăng trưởng hiện nay, liệu mục tiêu này có khả thi, thưa ông?

TS. Huỳnh Thế Du: Để biết mục tiêu tăng trưởng hai con số đề ra có khả thi hay không, chúng ta cần nhìn vào những chỉ số thực tế của nền kinh tế cấu thành lên tăng trưởng.

Theo đó, nếu xét theo các ngành, lĩnh vực, bao gồm ba khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, có thể thấy, tiềm năng tăng trưởng đóng góp của nông nghiệp vào kinh tế gần như không đáng kể.

GDP năm 2024 ước tính tăng 7,09% so với năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của các năm 2018, 2019 và 2022 trong giai đoạn 2011-2024. Trong mức tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,27%, đóng góp 5,37%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,24%, đóng góp 45,17%; khu vực dịch vụ tăng 7,38%, đóng góp 49,46%.

Có thể thấy, trong tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế, đóng góp của khu vực nông nghiệp rất nhỏ. Đến năm 2045, với tốc độ tăng trưởng kinh tế như mục tiêu đề ra, đóng góp của ngành nông nghiệp dự kiến sẽ còn nhỏ hơn rất nhiều.

Khu vực tiếp theo là dịch vụ, đóng góp của khu vực này rất lớn, tuy nhiên, luôn giữ ở mức ổn định, rất khó có bước đột phá để giúp kinh tế đạt tăng trưởng hai con số.

Như vậy, khả năng mang lại mức tăng trưởng cao cho cả nền kinh tế phụ thuộc rất lớn vào công nghiệp.

Nhìn kỹ hơn vào các cấu phần của nền kinh tế, GDP theo phương pháp chi tiêu bằng tiêu dùng của các hộ gia đình, chi tiêu của Chính phủ, cộng đầu tư, cộng xuất khẩu trừ nhập khẩu, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngành công nghiệp gắn với xuất khẩu trong việc tạo đà tăng trưởng của nền kinh tế.

Theo đó, khả năng chi tiêu của Chính phủ không tăng lên nhiều trong các năm gần đây, thậm chí còn giảm do chính sách thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tiêu dùng của hộ gia đình, doanh nghiệp nhiều khả năng sẽ tiếp tục ổn định do những tác động của kinh tế chung và nguy cơ lạm phát.

Chỉ còn xuất khẩu gắn với sản xuất công nghiệp đang trở thành điểm sáng của kinh tế trong tương lai.

Câu hỏi đặt ra là đâu sẽ là dư địa cho khu vực công nghiệp và xuất khẩu phát triển trong thời gian tới, khi việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã rất lớn trong thời gian vừa qua và Việt Nam cũng là nước có giá trị xuất khẩu không nhỏ?

TS. Huỳnh Thế Du: Bài toán có thể nhìn thấy rõ là muốn tăng trưởng hai con số, Việt Nam phải dựa vào công nghiệp và xuất khẩu. Tuy nhiên, để tìm ra dư địa cho tăng trưởng lại không dễ một chút nào!

Xuất khẩu của Việt Nam đang có độ mở rất lớn. Thời gian vừa qua, chúng ta đã tận dụng tốt các hiệp định thương mại tự do (FTAs) để trở thành quốc gia xuất khẩu mạnh. Tuy nhiên, đa phần vẫn là gia công, giá trị gia tăng thấp.

Để vươn lên tăng trưởng hai con số, Việt Nam cần đầu tư vào công nghệ và chất lượng sản phẩm, thay vì chỉ dựa vào khối lượng và xuất khẩu của khu vực FDI.

Giống như Hàn Quốc với Samsung và LG, Việt Nam phải có những sản phẩm của trong nước, có thương hiệu vững mạnh trên thị trường quốc tế.

Bên cạnh đó, có một thị trường xuất khẩu rất lớn mà Việt Nam chưa khai thác đúng tiềm năng là xuất khẩu sang Trung Quốc. Hiện chúng ta đang nhập siêu rất lớn từ quốc gia này, nhưng nếu có một cách nào đó để cân bằng cán cân xuất nhập khẩu với Trung Quốc, thì sẽ mở ra một tiềm năng tăng trưởng kinh tế rất lớn trong tương lai.

Mặt khác, với xuất khẩu, Việt Nam không thể mãi chỉ dựa vào khối các doanh nghiệp FDI, hay gia công, mà phải nâng cấp chuỗi giá trị, phát triển xuất khẩu gắn với sản xuất công nghiệp.

Với trụ cột thứ hai là đầu tư, nhu cầu phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất của Việt Nam trong thời gian tới còn nhiều dư địa rất lớn. Chính vì vậy, đầu tư cũng sẽ mở ra một không gian mới cho tăng trưởng.

Cần tập trung vào đổi mới sáng tạo để tăng trưởng hai con số

Liệu việc làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống có đủ để đưa kinh tế Việt Nam bứt phá, hay còn cần yếu tố nào khác, thưa ông?

TS. Huỳnh Thế Du: Các động lực cũ vẫn tăng trưởng nhưng không quá lớn, khó có thể tạo ra sức bật mạnh mẽ cho cả nền kinh tế. Tăng trưởng cao chỉ khả thi nếu có sự đột phá thực sự.

Đơn cử như với xuất khẩu, để có mức tăng trưởng cao, phụ thuộc rất lớn vào khả năng đổi mới sáng tạo của nền kinh tế. Chính đổi mới sáng tạo mới có khả năng tạo ra tri thức mới, năng suất mới cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Có thể thấy rất rõ rằng, kim ngạch xuất khẩu của Samsung đóng góp 50 - 60 tỷ USD mỗi năm cho Việt Nam, nhưng phần giá trị gia tăng do chúng ta tạo ra và nhận được chỉ nằm ở phần tiền lương cho người lao động, cộng với một phần nhỏ đầu tư vào hạ tầng, cho thuê đất và gia công một số công đoạn của sản xuất.

Những giá trị đóng góp của Việt Nam vào các sản phẩm xuất khẩu này rất nhỏ bé, giá trị thu về rất thấp, không đáng kể.

Chính vì vậy, bài toán đặt ra là Việt Nam phải làm thế nào để tăng được phần giá trị gia tăng mà tạo chúng ta ra trong các sản phẩm, tăng năng suất lao động để tạo ra nhiều giá trị cho nền kinh tế, đóng góp vào tăng trưởng.

Có ba nhân tố tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế là lực lượng lao động, sở hữu đất đai và vốn. Tuy nhiên, có thể thấy cả ba yếu tố này hiện đều đã đến ngưỡng cao nhất. Tài nguyên đất đai khó có thể tăng thêm, lực lượng lao động trẻ của Việt Nam đang dần mất đi lợi thế do già hóa dân số và cạnh tranh khốc liệt với các nước trong khu vực.

Do đó, phần giá trị gia tăng do Việt Nam tạo ra trong các sản phẩm hàng hóa chỉ có thể phụ thuộc vào khả năng tạo ra tri thức mới.

Không chỉ trong lĩnh vực công nghiệp, điều này cũng đúng với cả lĩnh vực nông nghiệp và các hoạt động đầu tư. Thay vì xuất khẩu nông sản thô, Việt Nam có thể chế biến để năng cao giá trị của nông sản.

Hay như với đầu tư, nếu không có tư duy đúng, không đầu tư đúng, "chỉ đào đường lên, lấp đường xuống cũng tính tăng GDP", nhưng lại không có ý nghĩa gì đối với việc tăng trưởng.

Việc tăng trưởng kinh tế, không đến từ yếu tố nào khác ngoài khả năng đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Nó phụ thuộc vào năng lực khoa học công nghệ, chất lượng của hệ thống giáo dục và nguồn nhân lực trong nước.

Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, bứt phá sẽ đến từ khả năng đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Ảnh: Hoàng Anh.

Tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, bứt phá sẽ đến từ khả năng đổi mới sáng tạo của Việt Nam. Ảnh: Hoàng Anh.

Những khó khăn, thách thức của Việt Nam trong đổi mới sáng tạo là gì, thưa ông?

TS. Huỳnh Thế Du: Vừa qua, Bộ chính trị đã có Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, đây là bước tiến rất lớn của Việt Nam trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Đây chính là động thái rất đáng mừng của Đảng, Nà nước trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Đổi mới sáng tạo, nằm sâu xa hơn chính là vấn đề về tự do tư tưởng, tự do tư duy của con người, bởi đổi mới sáng tạo chính là muốn làm cái mới và chỉ khi dám nghĩ điều không dám nghĩ, không thể nghĩ", nghĩ một cách "điên rồ", khác thường, mới tìm ra cái mới được.

Còn nếu vẫn có "vòng kim cô", giới hạn về suy nghĩ, tư tưởng của con người, thì sẽ rất khó tìm ra cái mới.

Chìa khóa của đổi mới sáng tạo quốc gia nằm ở khả năng đổi mới sáng tạo của đội ngũ, khả năng dám bước vào vùng xám, vào những cái "mù mờ, chưa rõ ràng" của cơ chế pháp luật.

Đây là một thách thức rất lớn cho Việt Nam. Hô hào đổi mới sáng tạo thì dễ, nhưng để thực sự làm, để dám nghĩ dám làm thì cần một cách tiếp cận khác, cần một cú huých để trấn áp được nỗi sợ của bộ máy trước những vấn đề "sáng đúng chiều sai, đến mai lại đúng và đến mốt lại sai", để những người dám nghĩ, dám làm, có ý tưởng mới không vướng vòng lao lý.

Đây chính là những bài học từ quá khứ, làm cản trở năng lực đổi mới sáng tạo của cả đất nước, từ bộ máy quản lý, đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế và người dân.

Cái đó là những vấn đề cần phải giải quyết ngay ở bối cảnh hiện tại để thúc đẩy đổi mới sáng tạo.

Thứ hai, nền tảng của đổi mới sáng tạo còn có yếu tố rất quan trọng là tự do học thuật. Hệ thống giáo dục, năng lực nghiên cứu của cả nước phải có độ dày, độ đông đặc, lúc đó mới tạo ra hiệu ứng lan tỏa, dẫn truyền ra cả xã hội cùng lao vào đổi mới sáng tạo.

Tuy nhiên, có thể thấy hiện năng lực nghiên cứu và hệ thống giáo dục của Việt Nam còn khá mỏng, cần phải được đầu tư nhiều hơn nữa nếu muốn đẩy nhanh quá trình đổi mới sáng tạo của cả nước.

Cả đất nước phải cùng chung nhịp "đi lên"

Vậy theo ông, cần có giải pháp như thế nào để thúc đẩy đổi mới sáng tạo một cách thực chất hiện nay?

TS. Huỳnh Thế Du: Kinh nghiệm của các nước có bối cảnh thời đại giống với Việt Nam cho thấy, việc mở cửa cho cơ chế chính sách, đổi mới sáng tạo trong bối cảnh mọi người còn e ngại, chính là thử nghiệm, có thể bắt đầu từ một vài nhóm nhỏ. Chúng ta không nên kỳ vọng mọi thứ sẽ xoay chuyển ngay lập tức mà nên làm từng bước một.

Trong một vài năm tới sẽ có một số nhóm nhỏ tiên phong làm trước, sau đó dần dần được nhân rộng mô hình ra cả nước, tạo động lực cho bộ máy cán bộ công chức làm việc và niềm tin mới, khí thế mới cho các doanh nghiệp trên thị trường.

Kinh nghiệm từ các nước phát triển trong khu vực cho thấy, họ luôn có một đội ngũ doanh nghiệp tư nhân, doanh nhân dân tộc lớn mạnh, dẫn dắt kinh tế cả nước đi lên. Ông có kỳ vọng điều đó ở Việt Nam?

TS. Huỳnh Thế Du: Để giúp nền kinh tế tăng trưởng mạnh cần có ba yếu tố cốt lõi. Thứ nhất là các yếu tố sẵn có như tài nguyên, đất đai, vị trí địa lý, quy mô nền kinh tế. Đây là những yếu tố ít thay đổi theo thời gian.

Thứ hai là năng lực cạnh tranh ở góc độ vĩ mô, gồm hạ tầng kỹ thuật, xã hội, năng lực của các cấp chính quyền, bộ máy quản lý.

Và thứ ba là năng lực cạnh tranh ở góc độ vĩ mô, gồm môi trường kinh doanh, trình độ phát triển của ngành, sự đông đặc, lớn mạnh trong sự phát triển của một ngành kinh tế nào đó.

Trong tất cả các yếu tố đó, sự phát triển của doanh nghiệp, việc sở hữu một đội ngũ các doanh nghiệp tư nhân lớn mạnh, làm nên thương hiệu quốc gia tất yếu sẽ có những đóng góp quan trọng đối với tăng trưởng, nhưng đó không phải tất cả.

Mặt khác, muốn doanh nghiệp tư nhân trong nước phát triển, đòi hỏi phải có cả ba yếu tố trên thuận lợi. Các doanh nghiệp không thể từ "cậu bé lên ba, bỗng thành Thánh Gióng".

Muốn như thế, Việt Nam phải cải thiện được hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, môi trường kinh doanh, năng lực quản lý của bộ máy, phải làm sao để cả đất nước cùng chung nhịp đi lên, hỗ trợ, liên kết cùng phát triển, chứ không chỉ trông chờ vào các doanh nghiệp lớn.

Với các yếu tố trên, có thể thấy, mục tiêu tăng trưởng vẫn là ẩn số rất lớn, đòi hỏi cả nước phải có những bước chuyển mình, thay đổi rất lớn trong tương lai.

Xin cảm ơn ông!

Phương Linh

Nguồn Nhà Quản Trị: https://theleader.vn/chon-loi-di-nao-de-kinh-te-but-pha-tang-truong-2-con-so-d39273.html
Zalo