5 năm thực thi EVFTA: Xuất siêu sang EU vượt 35 tỷ USD, 'cửa sáng' cho các mặt hàng chủ lực

EVFTA không chỉ là một hiệp định thương mại, mà còn là một động lực quan trọng thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Sau 5 năm thực thi, hiệp định này đã mang lại những cơ hội lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ về năng lực cạnh tranh, nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường.

EVFTA: 'Bệ phóng' xuất siêu sang EU

Trong báo cáo “Việt Nam sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA): Kết quả, yêu cầu và định hướng cải cách” được công bố chiều 24/2, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) nhấn mạnh: Sau 5 năm thực thi, Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) đã và đang đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Hiệp định này không chỉ tạo động lực mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài mà còn thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và tiêu chuẩn phát triển bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng.

 Xuất nhập khẩu của Việt Nam, 2014-2024. Nguồn: CIEM, Tổng cục Thống kê.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam, 2014-2024. Nguồn: CIEM, Tổng cục Thống kê.

Cán cân thương mại giữa hai bên trong toàn bộ giai đoạn 2014-2024 duy trì trạng thái thặng dư, cho thấy Việt Nam xuất khẩu sang EU nhiều hơn so với nhập khẩu. Đặc biệt, mức thặng dư thương mại cao nhất đạt 35,2 tỷ USD vào năm 2024, khẳng định sự mở rộng và phát triển mạnh mẽ của xuất khẩu Việt Nam sang thị trường châu Âu. Đây là một dấu hiệu tích cực, phản ánh sự cải thiện trong năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam cũng như chiến lược khai thác hiệu quả các ưu đãi từ các FTA.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2014-2024 (Đơn vị: Tỷ USD).Nguồn: CIEM, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải Quan.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2014-2024 (Đơn vị: Tỷ USD).Nguồn: CIEM, Tổng cục Thống kê, Tổng cục Hải Quan.

Hiệu chỉnh tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu với thị trường EU trước và sau EVFTA (đơn vị: %).Nguồn: CIEM tính toán từ cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê (các năm 2013-2023) và Tổng cục Hải quan (năm 2024).

Hiệu chỉnh tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu với thị trường EU trước và sau EVFTA (đơn vị: %).Nguồn: CIEM tính toán từ cơ sở dữ liệu của Tổng cục Thống kê (các năm 2013-2023) và Tổng cục Hải quan (năm 2024).

Những số liệu từ CIEM cho thấy, mặc dù EVFTA có tác động tích cực đến một số thị trường, nhưng mức độ ảnh hưởng chưa thực sự đồng đều, và còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như năng lực xuất khẩu của Việt Nam, sự thay đổi trong nhu cầu thị trường EU, cũng như các biến động kinh tế toàn cầu.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM đánh giá, trong số các FTA quan trọng, EVFTA mang lại lợi thế lớn nhất khi Việt Nam duy trì xuất siêu bền vững với EU. Điều này thể hiện rõ qua mức xuất khẩu tăng ổn định từ 24,3 tỷ USD năm 2014 lên 51,8 tỷ USD vào năm 2024, trong khi nhập khẩu chỉ tăng từ 8,2 tỷ USD lên 16,6 tỷ USD. Nhờ đó, Việt Nam ghi nhận mức thặng dư thương mại ngày càng lớn với EU, từ 16,1 tỷ USD năm 2014 lên 35,2 tỷ USD năm 2024. Đây là minh chứng cho việc EVFTA đã giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng có lợi thế như dệt may, da giày và nông sản chế biến.

Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), EVFTA tạo ra sức hút đáng kể đối với dòng vốn từ EU, nhất là trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng tái tạo và sản xuất xanh. Các cam kết mở cửa thị trường, bảo hộ đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn hơn cho các doanh nghiệp châu Âu.

Tuy nhiên, dòng vốn FDI từ EU vẫn chưa tăng mạnh như kỳ vọng do các rào cản về thủ tục hành chính, chính sách thuế và hạn chế trong chuỗi cung ứng nội địa. Việc thúc đẩy cải cách mạnh mẽ hơn và hoàn thiện cơ chế thu hút đầu tư từ EU sẽ là yếu tố quan trọng để tận dụng hiệu quả lợi thế từ EVFTA.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang một số thị trường có FTA (Đơn vị: tỷ USD).Nguồn: CIEM tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.

Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang một số thị trường có FTA (Đơn vị: tỷ USD).Nguồn: CIEM tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan.

Tầm nhìn dài hạn mới thấy được lợi ích

Trao đổi với phóng viên về sự thích ứng của các doanh nghiệp Việt Nam để bước chân vào một trong những thị trường có rất nhiều quy chuẩn khắt khe, ông Anh Dương cho biết: “Trong thời gian vừa qua, Việt Nam và EU đã có những hợp tác rất tích cực về hoạt động thương mại. Nhìn từ góc độ xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, chúng ta có thể thấy những kết quả tương đối tích cực. Trong năm 2024, xuất khẩu của Việt Nam sang EU đã có bước tăng trưởng dương, phục hồi đáng kể so với năm 2023. Điều đó thể hiện doanh nghiệp Việt Nam rất coi trọng thị trường EU và nhận ra những cơ hội để khai thác. Trong bối cảnh mới, doanh nghiệp Việt Nam đã tăng trưởng rất tích cực, và sự tăng trưởng dương đó thể hiện sức sống của doanh nghiệp.

 Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM. Ảnh: Mai Trang.

Ông Nguyễn Anh Dương, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM. Ảnh: Mai Trang.

Quan trọng hơn, đặt trong bối cảnh EU đã ban hành và thực thi nhiều quy định mới về phát triển bền vững có thể ảnh hưởng đến cả nhu cầu và chất lượng hàng hóa nhập khẩu, khả năng thâm nhập của doanh nghiệp Việt Nam cho thấy bước đầu đã có sự thích ứng. Chúng ta có thể thấy những câu chuyện về giảm phát thải, ứng dụng các mô hình kinh tế mới, hay tổ chức sản xuất phù hợp với các quy định về phát triển bền vững của EU. Doanh nghiệp Việt Nam đã làm được rất nhiều, một phần nhờ vào chính sách trong nước, có những chính sách quyết liệt để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn”.

Ông Dương cũng đánh giá tiềm năng trong thời gian tới của Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, các bộ, ngành cần thống nhất và ban hành sớm những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực thi chuyển đổi xanh để thích ứng với các quy định phát triển bền vững của EU. Đồng thời, EU nên tiếp tục có những hỗ trợ kỹ thuật phù hợp cho Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam, để nâng cao năng lực và đáp ứng được các tiêu chuẩn.

“Tôi nghĩ đây sẽ là một câu chuyện rất nhiều tiềm năng. Cần lưu ý rằng ngày 20/2 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 17 về thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn trong hợp tác với EU. Điều đó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác với EU đối với Chính phủ, bởi vì đây là một nơi thử nghiệm và đề ra những tiêu chuẩn mà chúng ta có thể thích ứng.

Điều quan trọng nhất đối với doanh nghiệp Việt Nam là làm thế nào để nhìn nhận các tiêu chuẩn đó. Nếu chỉ tìm cách ứng phó một cách thụ động thì chúng ta sẽ mãi mãi là người chạy theo. Nếu có những bước sử dụng, đầu tư, tổ chức sản xuất kinh doanh một cách hợp lý và kết hợp với bán hàng dài hạn, thì chúng ta sẽ có lợi thế.

Ví dụ như câu chuyện ứng xử với dạng thuế quan từ phía thị trường EU. Theo EVFTA, nếu làm theo cách truyền thống, doanh nghiệp Việt Nam chỉ hạ giá bán và được hưởng lợi vì không phải chịu thuế quan, nên bán được giá rẻ hơn và cạnh tranh hơn. Thế nhưng, một cách làm thông minh hơn, thích ứng tốt hơn với yêu cầu mới, là doanh nghiệp dùng phần tiết kiệm để đầu tư vào các tiêu chuẩn hàng hóa mới, thích ứng với phát triển bền vững. Tức là thay vì bán với hàng hóa tiêu chuẩn truyền thống với các ưu đãi thuế quan thì đầu tư để bán hàng hóa với giá cao hơn. Cách làm như vậy giúp hàng hóa vẫn giữ được khả năng cạnh tranh ở thị trường EU, đồng thời doanh nghiệp cũng có điều kiện nguồn lực để có thể đầu tư cho khoa học công nghệ.

Nếu doanh nghiệp không nhìn một cách dài hạn mà chỉ ngắn hạn, thì sẽ khó có thể huy động được lợi ích từ thị trường EU”, ông Anh Dương đánh giá.

Bên cạnh những kết quả đạt được, theo ông Dương, việc thực thi EVFTA vẫn đối mặt với không ít thách thức khi hệ thống pháp luật còn thiếu rõ ràng, thủ tục hành chính phức tạp. Quy định cho các lĩnh vực mới như kinh tế tuần hoàn và kinh tế số còn đang trong quá trình hoàn thiện.

Dù có nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng và trình độ chuyên môn chưa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp EU, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ cao, kỹ thuật số và sản xuất tiên tiến.

Các doanh nghiệp EU phải đối mặt với sự cạnh tranh mạnh từ doanh nghiệp Việt Nam trong nhiều lĩnh vực, đòi hỏi họ phải thích nghi với điều kiện kinh doanh và chiến lược thị trường tại Việt Nam.

Việc thực thi EVFTA còn nhiều hạn chế và thách thức khi thị trường EU yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn sản phẩm, trong khi nhiều doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu gia công và nhập nguyên liệu từ các nguồn không đáp ứng quy tắc xuất xứ của EVFTA.

Việc điều chỉnh quy trình sản xuất, cải thiện điều kiện lao động và đầu tư công nghệ để đáp ứng các cam kết tiêu chuẩn cao của EVFTA đòi hỏi chi phí lớn từ phía Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam cũng là thách thức không nhỏ. Việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và quy mô nhỏ khiến doanh nghiệp Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi biến động kinh tế, chính trị toàn cầu. Đồng thời, họ phải cạnh tranh với hàng hóa chất lượng cao từ EU ngay tại thị trường nội địa.

Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp chưa hiểu rõ về EVFTA, thiếu chuẩn bị và gặp khó trong việc thay đổi để tận dụng cơ hội từ hiệp định. Nguy cơ về các biện pháp phòng vệ thương mại, áp lực từ các cam kết về môi trường và phát triển bền vững... cũng là những hạn chế và thách thức trong thực thi EVFTA.

Để tối ưu hóa lợi ích từ EVFTA, CIEM cho rằng, Việt Nam cần tiếp tục rà soát, điều chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả các cam kết EVFTA. Cách tiếp cận cần hướng tới tăng cường hợp tác giữa Việt Nam và EU về cải cách các quy định theo hướng phù hợp với các xu hướng mới, đặc biệt là về công nghệ mới và phát triển bền vững.

Đồng thời, việc cải thiện cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương trong thực thi hiệp định là rất quan trọng để nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan liên quan. Việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao tính minh bạch và ổn định trong chính sách sẽ giúp thu hút thêm FDI có chất lượng từ EU.

"Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đào tạo và hướng dẫn doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong việc tận dụng các ưu đãi từ EVFTA. Để phát triển chuỗi cung ứng bền vững, Việt Nam cũng cần xây dựng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn về phát triển bền vững của EU", ông Dương đề xuất.

Trang Mai

Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/5-nam-thuc-thi-evfta-xuat-sieu-sang-eu-vuot-35-ty-usd-cua-sang-cho-cac-mat-hang-chu-luc.html
Zalo