Số ca mắc sởi ở Hà Nội liên tục tăng, nguyên nhân do đâu?
Số ca mắc sởi tại Hà Nội vẫn tiếp tục gia tăng và chưa có dấu hiệu hạ nhiệt, nhiều ca diễn biến nặng.
Lịch tiêm chủng “lỡ hẹn” và chu kỳ sởi tái xuất
Sau khi xuất hiện các triệu chứng sốt, phát ban và ho, bệnh nhi V.L.H.T, 3 tháng tuổi (Thanh Trì, Hà Nội) đã được đưa đến Bệnh viện Nhi Hà Nội để thăm khám. Trước đó, bệnh nhi đã điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương vì phát hiện hạch ở nách nhưng không ngờ bị lây nhiễm sởi từ cộng đồng.
“Con chưa đủ tuổi để tiêm vaccine sởi nên rất dễ nhiễm bệnh. Khi thấy con phát ban và sốt, tôi lập tức đưa con vào viện. Bệnh tiến triển rất nhanh, chỉ sau vài ngày con đã bị viêm phổi”, chị Hòa - mẹ bệnh nhi chia sẻ.
Bệnh nhi N.H.A, 2 tuổi (Phương Mai, Hà Nội) nhập viện ngày 14/12 sau khi sốt cao và phát ban toàn thân. Mẹ bệnh nhi thừa nhận: “Gia đình chủ quan không cho con tiêm vaccine vì nghĩ bé từng mắc sởi rồi nhưng không ngờ lần này bệnh lại nghiêm trọng hơn và còn có biến chứng. Khi nhập viện, ban đã lan khắp người. May mắn sau điều trị, tình trạng của bé dần ổn định. Nếu không có gì thay đổi, bác sĩ nói con có thể xuất viện sớm.”
Một trường hợp khác là bé V.A.K, 7 tháng tuổi (Hoàng Mai, Hà Nội), bị biến chứng viêm phổi nặng do sởi tái phát. Mẹ bé cho biết: “Cách đây một tuần, con vừa điều trị viêm phổi tại Bệnh viện Bạch Mai. Nhưng sau khi về nhà vài ngày, con lại xuất hiện các triệu chứng sốt cao, ho và khó thở. Sau khi đưa cháu đi khám thì bác sĩ kết luận con bị viêm phổi tái phát do biến chứng từ sởi”.
Tiếng ho khàn đặc không dứt của bệnh nhi vang lên trong căn phòng khiến người mẹ càng thêm sốt ruột. Chị ôm con vào lòng, nhẹ nhàng vỗ lưng con từng nhịp, cố gắng giúp con dễ chịu hơn trong lúc đợi bác sĩ. Sự mệt mỏi và lo âu hằn sâu trên gương mặt chị, đan xen với nỗi niềm hy vọng con sẽ sớm khỏi bệnh.
Trong khoảng ba tháng trở lại đây, số ca mắc sởiđã gia tăng đáng kể trên cả nước. Tại Hà Nội, hơn 200 trường hợp mắc sởi đã được ghi nhận, trong đó Bệnh viện Nhi Hà Nội tiếp nhận hơn 40 ca kể từ khi chính thức đi vào hoạt động vào đầu tháng 10.
Chia sẻ với PV Gia đình Việt Nam, TS.BS Đỗ Thị Thúy Nga, Phó Giám đốc Bệnh viện Nhi Hà Nội, cho biết: “Khoảng 30% các bệnh nhi nhập viện trong tình trạng nặng, phải can thiệp thở oxy hoặc thở máy. Đặc biệt, nhóm trẻ dưới 1 tuổi chiếm hơn 40% các ca mắc, nhiều trường hợp chưa đến độ tuổi tiêm phòng. Ngoài ra, bệnh viện cũng ghi nhận một số ca ở trẻ lớn trên 5 tuổi, tuy nhiên số lượng này không đáng kể".
Theo các chuyên gia, dịch sởi năm 2024 là hệ quả của chu kỳ bệnh dịch tự nhiên kết hợp với tỷ lệ tiêm chủng thấp. Hơn 90% trẻ nhập viện chưa được tiêm phòng hoặc tiêm phòng không đầy đủ. Giai đoạn cách ly xã hội trong dịch COVID-19 khiến nhiều trẻ bị bỏ lỡ các mũi tiêm quan trọng, đồng thời phụ huynh thiếu cảnh giác với lịch tiêm nhắc lại. Điều này dẫn đến sự gia tăng các ca mắc, đặc biệt trong nhóm trẻ dưới 9 tháng tuổi - nhóm chưa đến độ tuổi tiêm vaccine.
Làm gì khi sởi “gõ cửa” mùa dịch?
Để kiểm soát dịch bệnh, các chuyên gia nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tuân thủ lịch tiêm vaccine sởi. Trẻ từ 9 tháng tuổi cần tiêm mũi đầu tiên, nhắc lại mũi hai ở 15-18 tháng và mũi thứ ba khi trẻ 4-6 tuổi. Đối với trẻ có nguy cơ cao hoặc sống trong vùng dịch, bác sĩ có thể cân nhắc tiêm sớm từ 6 tháng tuổi. Tiêm phòng đầy đủ không chỉ bảo vệ cá nhân trẻ mà còn giúp giảm nguy cơ lây lan trong cộng đồng.
Bên cạnh đó, các biện pháp phòng ngừa như tăng cường miễn dịch, giữ vệ sinh cá nhân và theo dõi sát sao sức khỏe trẻ đóng vai trò không kém phần quan trọng. Phụ huynh cần đảm bảo trẻ được ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, giữ ấm cơ thể trong mùa lạnh, rửa tay thường xuyên và hạn chế tiếp xúc đông người.
Thời điểm giao mùa không chỉ khiến số ca mắc sởi gia tăng mà còn phản ánh nguy cơ bùng phát của nhiều căn bệnh truyền nhiễm khác. Các chuyên gia y tế khuyến nghị người dân nên chủ động chú trọng thực hiện các biện pháp phòng ngừa.
Ngoài ra, khi phát hiện các triệu chứng bất thường như sốt cao kéo dài, phát ban hoặc khó thở, gia đình cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và điều trị kịp thời, tránh nguy cơ biến chứng nguy hiểm.