Phát triển kinh tế tư nhân:Vùng an toàn pháp lý và cú hích niềm tin

Ngày 4/5, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 68‑NQ/TW ( Nghị quyết 68) về phát triển kinh tế tư nhân (KTTN). TS Mạc Quốc Anh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội trong cuộc trao đổi với Đại Đoàn Kết đã phân tích về 'vùng an toàn' mà Nghị quyết tạo ra được cấu thành bởi bốn yếu tố: Không gian thể chế rộng mở; Hệ sinh thái hỗ trợ vốn, thị trường, nhân lực; Cơ chế bảo vệ quyền tài sản và sáng kiến; Hệ thống thực thi hiệu quả, minh bạch, chi phí thấp.

Để doanh nghiệp tư nhân không đơn lẻ

PV: Đang là tâm điểm của các cuộc thảo luận, Nghị quyết 68 đã chạm vào những điểm then chốt nhất trong việc định vị và phát triển kinh tế tư nhân. Quan điểm của ông về vấn đề này?

Ông Mạc Quốc Anh

Ông Mạc Quốc Anh

Ông Mạc Quốc Anh: Thứ nhất, Nghị quyết khẳng định KTTN “quan trọng nhất” chứ không chỉ là “một trong ba trụ cột”. Việc này chuyển KTTN từ “bổ trợ” sang vị trí trung tâm, buộc toàn bộ hệ thống chính sách xoay quanh việc khai phóng nguồn lực tư nhân.

Thứ hai, đặt mục tiêu định lượng rõ ràng: Đến 2030, KTTN đóng góp 55–58 % GDP, duy trì tốc độ tăng trưởng 10–12 %/năm; hình thành ít nhất 20 doanh nghiệp lớn tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Đến 2045, có tối thiểu 3 triệu doanh nghiệp (DN), đóng góp trên 60 % GDP, 70 % giá trị xuất khẩu, 90 % việc làm mới.

Thứ ba, tư duy “hệ sinh thái” thay cho cách tiếp cận cục bộ. Nghị quyết không chỉ nói đến tín dụng hay thuế ưu đãi, mà thiết kế đồng thời: hạ tầng số‑xanh, thị trường vốn, logistics, pháp lý về cổ phần hóa, bảo hộ sở hữu trí tuệ…

Thứ tư, nhấn mạnh đổi mới sáng tạo – chuyển đổi số – chuyển đổi xanh như trụ đỡ năng lực cạnh tranh mới. Điều này đặt khu vực tư nhân vào trung tâm chuỗi cung – cụm công nghiệp công nghệ cao, thay vì chỉ gia công lắp ráp.

Sau gần 40 năm đổi mới, đến nay chúng ta đã xác định khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Nhưng thưa ông, làm sao để kết nối được doanh nghiệp tư nhân với các khu vực doanh nghiệp khác ( doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài)?

- Dù đóng góp 43 % GDP và 85 % lực lượng lao động, DN tư nhân Việt Nam vẫn “đơn lẻ”, quy mô nhỏ – chỉ 3,6 % vượt mốc vốn điều lệ 100 tỷ đồng. Để kết nối ba khu vực doanh nghiệp, tôi đề xuất 6 nhóm giải pháp:

Về chuỗi giá trị ngành, áp dụng mô hình Leading‑Firm Anchoring: chọn một doanh nghiệp nhà nước ( DNNN) hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài (FDI) dẫn dắt trong mỗi chuỗi (ô‑tô, bán dẫn, dệt may sinh thái) rồi ràng buộc tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu; đồng thời yêu cầu chuyển giao công nghệ thông qua hợp đồng OEM‑ODM kéo dài 5–7 năm.

Trung tâm liên kết – cụm đổi mới: xây tối thiểu 5 trung tâm hướng đến công nghệ (Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ). Tại đây, DN tư nhân được chia sẻ phòng thí nghiệm, dữ liệu thử nghiệm, chuyên gia DNNN và FDI.

Mạng lưới đặt hàng công, trong các dự án đầu tư công 2026–2030, dành 30 % gói thầu phụ trợ/bảo trì cho DN tư nhân đạt chuẩn ESG.

Sàn giao dịch số hóa chuỗi cung ứng: thống nhất nền tảng, hệ thống quản lý mua sắm và giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp của 3 nhóm DN (mã HS, tiêu chuẩn kỹ thuật, điều khoản thanh toán). DN nhỏ có thể “đấu thầu điện tử” thay vì gửi hồ sơ giấy 4–5 lần.

Quỹ đổi mới chuỗi liên kết: đồng tài trợ bởi DNNN (30 %), FDI (30 %), ngân sách (20 %) và DN tư nhân (20 %) – vốn mồi 10.000 tỷ đồng, tài trợ thử nghiệm vật liệu mới, AI kiểm soát chất lượng.

Thí điểm “Sandbox liên kết cổ phần”: cho phép DN tư nhân nắm tối đa 49 % cổ phần công ty con của DNNN trong các lĩnh vực phụ trợ, giúp họ học chuẩn quản trị quốc tế, tiếp cận thị trường tín dụng ngoại tệ.

Nếu không tạo chất keo kết nối, ba khu vực DN sẽ tiếp tục song hành chứ không “cộng hưởng giá trị gia tăng”.

Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, sản xuấtt. Ảnhh: N.T.

Doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, sản xuấtt. Ảnhh: N.T.

Nghị quyết 68 có nội dung: “Tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch, ổn định, an toàn, chi phí thấp, đạt chuẩn quốc tế. Hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách đột phá để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển trong các lĩnh vực ưu tiên, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, thúc đẩy khởi nghiệp và làm giàu chính đáng”. Tuy nhiên hiện nay, chất lượng thực thi công vụ, việc giải quyết thủ tục cho DN rất chậm, khiến họ mất niềm tin hoặc làm lỡ mất cơ hội đầu tư kinh doanh. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?

- Nhiều DN phản ánh 40–45 % thời gian dự án bị “găm” ở khâu thẩm định phòng cháy chữa cháy, môi trường, đất đai; chi phí không chính thức bình quân 5–7 % tổng vốn.

Để giải quyết vấn đề này, tôi cho rằng cần ba đột phá: Chuyển từ “thủ tục phê chuẩn” sang “quản trị rủi ro sau cấp phép”. Nghĩa là cơ quan nhà nước công khai bộ tiêu chí, DN nộp hồ sơ trực tuyến, ngay lập tức được cấp mã số đầu tư tạm thời. Cơ quan công quyền sẽ hậu kiểm ngẫu nhiên 10–15 % dự án hằng năm; DN vi phạm bị rút phép và bồi thường.

Chỉ số KPI cán bộ gắn với dữ liệu số: Cán bộ một cửa có bảng điều khiển hiển thị tiến độ, tỷ lệ hồ sơ trễ tự động gửi thư điện tử lãnh đạo sở. Thông số này liên thông với đánh giá thi đua, lương thưởng.

“Đại công trường chuẩn hóa thủ tục” 2025–2027: rà soát 100 % quy trình cấp phép đầu tư & xây dựng; bất kỳ quy định nào DN phải nộp lại giấy tờ nhà nước đã có sẽ bị loại bỏ. Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là chế độ trách nhiệm cá nhân. Nếu không đưa ra cơ chế “bị sa thải và truy cứu” đối với tình trạng trì trệ thì Nghị quyết sẽ khó tới đời sống DN.

Rà soát 100 % quy trình cấp phép đầu tư & xây dựng; bất kỳ quy định nào DN phải nộp lại giấy tờ nhà nước đã có sẽ bị loại bỏ. Đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là chế độ trách nhiệm cá nhân. Nếu không đưa ra cơ chế “bị sa thải và truy cứu” đối với tình trạng trì trệ thì Nghị quyết sẽ khó tới đời sống DN.

Cộng đồng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ đã không ít lần đề xuất xây dựng các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng… qua đó hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực kinh tế tư nhân. Vậy theo ông, cần có giải pháp cụ thể nào để doanh nghiệp có thể tiếp cận được vốn, giảm gánh nặng thuế, phí?

- Vốn vẫn là vấn đề nóng của cộng đồng doanh nghiệp. Nhưng Nghị quyết có nói về Quỹ bảo lãnh tín dụng SME, yêu cầu đến 2030 quỹ có vốn điều lệ 30.000 tỷ đồng. Cần sớm ban hành Nghị định sửa đổi, cho phép dùng đơn hàng hoặc tài sản hình thành trong tương lai làm tài sản đảm bảo, bảo lãnh tối đa 80 % giá trị vay.

Mô hình “sáng kiến trái phiếu xanh vi mô” rất đáng tham khảo, DN vay dưới 50 tỷ đồng phát hành trái phiếu ESG, được Ngân hàng Phát triển Việt Nam mua lại 40 % trái phiếu với lãi suất ưu đãi – giảm 150 đbp so với bình quân thị trường.

Hay như hệ thống xếp hạng tín nhiệm nội địa cho SME ứng dụng trí tuệ nhân tạo AI: lấy dữ liệu hóa đơn điện tử, bảo hiểm xã hội (BHXH), thuế để chấm điểm tín dụng, cắt giảm 30–40 % yêu cầu tài sản thế chấp.

Về lĩnh vực thuế phí, có thể áp dụng thuế TNDN ưu đãi lũy tiến. Trong đó DN đầu tư công nghệ AI, tự động hóa, kinh tế tuần hoàn được giảm 50 % thuế TNDN trong 5 năm; nếu chứng minh giảm 30 % phát thải CO₂ thì được +2 năm ưu đãi.

Hay thực hiện “Khấu trừ R&D ngược” ( khấu trừ cho nghiên cứu và phát triển - PV) mà hiểu đơn giản là cho phép DN khấu trừ 150 % chi phí R&D trước khi tính thu nhập chịu thuế . Việc này đang được áp dụng ở Singapore, Hàn Quốc.

Miễn lệ phí môn bài và phí công bố thông tin cho startup dưới 3 năm tuổi; áp dụng hoàn thuế giá trị gia tăng trong 7 ngày cho DN công nghiệp hỗ trợ đạt chuẩn nội địa hóa 30 %.

Còn về việc da dạng hóa kênh vốn, rõ ràng cần sớm hoàn thiện sàn giao dịch phát hành riêng lẻ (SME Private Placement) trên HOSE: DN dưới 100 tỷ vốn hóa được huy động qua đầu tư cộng đồng tối đa 20 tỷ/năm, nhà đầu tư cá nhân không phải là “nhà đầu tư chuyên nghiệp” nhưng được giới hạn 500 triệu đồng/DN/năm để phân tán rủi ro.

Dây chuyền đóng gói tự động trứng gà Hòa Phát. Ảnh : DN cung cấp.

Dây chuyền đóng gói tự động trứng gà Hòa Phát. Ảnh : DN cung cấp.

Nghị quyết 68 mở đường, DN phải tăng tốc

Tại Nghị quyết 68 còn khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân dẫn dắt đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Ông đánh giá như thế nào về quá trình chuyển đổi số, chuyển đổi xanh của doanh nghiệp hiện nay?

- Theo khảo sát 3.000 DN của Bộ KH‑CN (tháng 3/2025), 62 % DN đã áp dụng ít nhất một giải pháp số (ERP, thương mại điện tử, AI marketing), tăng 15 đpt so với 2023; song chỉ 11 % đạt mức “số hóa tổng thể”. Về chuyển đổi xanh, 28 % DN có kế hoạch giảm phát thải, nhưng mới 6 % đo lường được intensive CO₂.

Ta đang ở giai đoạn 2/4 (nhận thức & thử nghiệm với điểm tích cực là hệ sinh thái giải pháp nội địa rẻ hơn 30 % so với 2022 (nhờ các phần mềm dịch vụ và hội chợ công nghệ).

Tốc độ số hóa chứng từ thuế, hải quan rút ngắn thời gian thông quan trung bình 1,2 ngày.

Song chúng ta cũng có thách thức là thiếu vốn dài hạn: 70 % DN số cho biết ngân hàng vẫn yêu cầu tài sản thế chấp truyền thống.

Kỹ năng quản trị dữ liệu: chỉ 18 % DN có nhân sự chuyên trách an ninh mạng; rủi ro rò rỉ dữ liệu có thể xóa sạch lợi ích số hóa.

Tiêu chuẩn xanh khắt khe của EU, Mỹ (CBAM, EUDR) bắt đầu có hiệu lực, nhưng DN Việt mới đáp ứng 30–40 % yêu cầu truy xuất nguồn gốc.

Nhiệm vụ đặt ra là các doanh nghiệp cũng phải chủ động nâng cao trách nhiệm đổi mới năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh, để xứng đáng với vị thế "động lực quan trọng nhất" của nền kinh tế. Ông có lời khuyên nào cho cộng đồng doanh nghiệp?

- Tôi cho rằng tư duy “tam trụ” – số‑xanh‑liên kết: bất kỳ chiến lược 2025–2030 nào thiếu một trong ba trụ đều có nguy cơ lạc nhịp.

Đầu tư vào quản trị dữ liệu: coi dữ liệu là “tài sản thế chấp mới”. DN nhỏ có thể bắt đầu bằng Data Lake đơn giản trên nền tảng đám mây, chuẩn hóa quy trình bảo mật.

Chuẩn ESG sớm hơn luật: đừng chờ Luật Doanh nghiệp sửa đổi 2027 mới hành động. Ai tuân thủ chuẩn mực môi trường‑lao động‑quản trị tốt trước sẽ nắm lợi thế thị trường xuất khẩu.

Đa dạng hóa cấu trúc vốn: ngoài ngân hàng, hãy khai thác quỹ private equity nội địa, quỹ trái phiếu xanh và PPP trong hạ tầng sản xuất.

Liên kết cụm ngành – “cộng lực thay vì cộng hưởng”: tham gia hiệp hội ngành, cụm địa phương, chia sẻ R&D và đơn hàng để đạt kinh tế quy mô mà từng DN nhỏ không thể tự có.

Nâng chuẩn nguồn nhân lực: áp dụng mô hình “tín dụng kỹ năng” – DN gửi nhân viên học micro‑certificate, chi phí đào tạo trở thành khoản đầu tư khấu trừ thuế.

DN đầu tư công nghệ AI, tự động hóa, kinh tế tuần hoàn được giảm 50 % thuế TNDN trong 5 năm; nếu chứng minh giảm 30 % phát thải khí thì được cộng thêm 2 năm ưu đãi

Lợi thế của doanh nhân tư nhân luôn là tinh thần linh hoạt, dám chấp nhận rủi ro. Nhưng thời đại mới đòi hỏi quản trị rủi ro có hệ thống. Nghị quyết 68 đã dựng “vùng an toàn” về pháp lý và tầm nhìn; DN cần biến vùng an toàn đó thành bàn đạp tăng trưởng bằng thực lực và trách nhiệm xã hội.

Trân trọng cảm ơn ông !

Thúy Hằng

Nguồn Đại Đoàn Kết: https://daidoanket.vn/phat-trien-kinh-te-tu-nhan-vung-an-toan-phap-ly-va-cu-hich-niem-tin-10305411.html
Zalo