Những tiến bộ y học vượt trội trong sàng lọc, chẩn đoán trước sinh

Cho tới nay, các kỹ thuật sàng lọc, chẩn đoán trước sinh của Việt Nam đã ngang tầm thế giới, những tiến bộ y học vượt trội này giúp chẩn đoán, phát hiện và điều trị bệnh lý cho bào thai từ trong bụng mẹ, là kỳ tích của nền y học hiện đại, giúp cứu sống những thai nhi mắc bệnh hiểm nghèo.

NỘI DUNG

Sàng lọc trước sinh và chẩn đoán trước sinh

Những phép màu từ y học bào thai

Siêu âm và MRI chẩn đoán bất thường ở thai nhi

Kỹ thuật xét nghiệm Double test và Triple test phát hiện sớm dị tật bẩm sinh của thai nhi

Xét nghiệm không xâm lấn NIPT - Xét nghiệm sàng lọc toàn diện các bất thường di truyền trong thai kỳ

Xét nghiệm NIPT mở rộng - triSure Procare ra đời như một bước đổi mới, tiên phong trong lĩnh vực Sản - Nhi tại Việt Nam

Kỹ thuật MicroArray giúp đánh giá bất thường nhiễm sắc thể trên toàn bộ 23 cặp nhiễm sắc thể

Chọc ối chẩn đoán bất thường nhiễm sắc thể - Kỹ thuật Prenatal Bobs

Trước kia, sự phát triển của thai nhi chỉ được đánh giá qua thăm khám thông thường, điều này rất khó để nhận biết tình trạng phát triển của bào thai. Khi siêu âm trước sinh tiên tiến được sử dụng rộng rãi, hầu hết các dị tật thai nhi lớn hiện nay có thể được phát hiện. Kỳ diệu hơn nữa từ những sàng lọc, chẩn đoán trước sinh có thể sửa chữa những "lỗi" từ trong bào thai để em bé được chào đời khỏe mạnh.

Các kỹ thuật chẩn đoán, sàng lọc thai trước sinh giúp xác định sớm các dị tật bẩm sinh ở trẻ như hở hàm ếch, hội chứng Down, sứt môi, rối loạn giới tính, chậm phát triển trí tuệ, hội chứng truyền máu song thai, tim bẩm sinh... Mới đây, sự kiện can thiệp thông van tim thành công cho bào thai có bất thường tim mạch bẩm sinh nặng, cứu sống thai nhi ngay từ trong bụng mẹ, giúp em bé chào đời khỏe mạnh được đánh giá là một bước tiến mới về kỹ thuật chuyên sâu ngang tầm các nước phát triển.

Bé trai nặng 3.050g chào đời khỏe mạnh sau khi được thông tim can thiệp bào thai. Ảnh: BV Từ Dũ

Bé trai nặng 3.050g chào đời khỏe mạnh sau khi được thông tim can thiệp bào thai. Ảnh: BV Từ Dũ

Sàng lọc trước sinh và chẩn đoán trước sinh

Chẩn đoán trước sinh bằng các xét nghiệm sàng lọc (siêu âm, bấm ối, nhau thai, xét nghiệm NIPT, xét nghiệm gene...), điều trị xử trí bất thường thai nhi ngay trong bụng mẹ, phát hiện bất thường nhiễm sắc thể, phẫu thuật laser, điều trị các bệnh lý như song thai dị dạng...

GS.TS. Trần Danh Cường - nguyên Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết, sàng lọc sơ sinh và chẩn đoán trước sinh ở nước ta ban đầu rất đơn giản bằng các xét nghiệm huyết thanh của người mẹ, sau đó dựa vào tuổi của người mẹ, tuổi thai và một số chỉ tiêu khác để có thể đưa ra các nguy cơ.

Cho tới nay, lĩnh vực này ngày càng phát triển, đầu tiên là xét nghiệm 3 chất, 2 chất rồi thêm khoảng trắng sau gáy và gần đây là kỹ thuật mới – xác định ADN trong máu của người bệnh và từ thai nhi vào. Đây còn gọi là kỹ thuật sàng lọc không xâm lấn có độ chính xác cao, giảm tỷ lệ can thiệp xâm lấn cho thai nhi, tuy nhiên phương pháp hiện đại này cũng cần được thực hiện đúng chỉ định, không phải ai cũng sàng lọc.

Trung tâm Chẩn đoán trước sinh và Sàng lọc sơ sinh của Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã được thành lập nhiều năm nay, từ đó hệ thống sàng lọc, chẩn đoán trước sinh ở đây nói riêng và của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, cập nhật những tiến bộ ngang tầm thế giới, chúng ta có nhiều chuyên gia giỏi, hệ thống trang thiết bị hiện đại để có thể triển khai nhiều kỹ thuật sâu. Không ít dị tật trước sinh trong đó có dị tật tim, dị tật về hình thái, chức năng, dị tật về di truyền cũng như các biến dạng của thai đã được thầy thuốc của Việt Nam phát hiện từ rất sớm trước sinh, nhờ đó bà mẹ mang thai, gia đình có thể cùng bác sĩ lập kế hoạch chăm sóc thai kỳ phù hợp, dị tật nào có thể phẫu thuật được, sửa chữa được, khôi phục được…

Những phép màu từ y học bào thai

Cùng với sự hỗ trợ của công nghệ, sự ra đời của y học bào thai tại Việt Nam làm tăng cơ hội chẩn đoán phát hiện và điều trị bệnh lý thai nhi trong bụng mẹ, đây thực sự là kỳ tích của nền y học hiện đại, giúp "giải cứu" những thai nhi đang phải đối mặt với tử thần.

Việc làm chủ những kỹ thuật hiện đại và phức tạp này mở ra kỷ nguyên mới cho kỹ thuật can thiệp trong bào thai, đưa y học Việt Nam tiến kịp các nước có ngành y học tiên tiến nhất.

Y học bào thai là một ngành được phát triển không quá lâu trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều chuyên ngành gồm: Bác sĩ sản, bác sĩ chẩn đoán hình ảnh, bác sĩ di truyền, bác sĩ hồi sức sơ sinh - sơ sinh, bác sĩ chuyên khoa ngoại nhi...

Trước đây, khi chưa có những tiến bộ của y học, trường hợp thai nhi bị dị tật bẩm sinh nghiêm trọng thường đồng nghĩa với việc mất con. Việc thiếu thông tin về di truyền học và không có phương tiện chẩn đoán sớm các bất thường khiến việc cứu sống thai nhi gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, với những tiến bộ của y học bào thai và khoa học công nghệ ngày nay, bác sĩ có thể cứu sống nhiều thai nhi hơn và giảm nguy cơ bỏ thai do dị tật. Nếu như trước đây siêu âm chỉ có thể nhìn thấy túi thai, mô tả đường kính thai nhi và không thể quan sát được cấu trúc bên trong cơ thể thì hiện nay, siêu âm đã có thể phát hiện những bất thường về sọ não ngay từ khi thai được 9 -10 tuần thay vì phải đợi đến khi thai được 12 - 13 tuần như trước.

Y học phát triển giúp các các chuyên gia có thể quan sát sâu hơn về các vấn đề hình thái học của bào thai hay các vấn đề di truyền thông qua kỹ thuật như siêu âm, chụp cộng hưởng từ thai (MRI), xét nghiệm sàng lọc không xâm lấn (NIPT), chọc ối, sinh thiết gai nhau… Từ đó, phát hiện sớm và có kế hoạch can thiệp phù hợp khi thai có nguy cơ cao, dị tật bẩm sinh, chuẩn bị cho sự ra đời an toàn và phát triển khỏe mạnh của trẻ.

TTND.GS.TS. Nguyễn Duy Ánh - Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho biết: Y học bào thai là một lĩnh vực đang ngày càng được quan tâm và không ngừng phát triển trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, mỗi năm có khoảng hơn 41.000 trẻ bị dị tật bẩm sinh, trong đó khoảng 20.000 trẻ mắc dị tật nặng có thể phát hiện nhờ siêu âm, tương đương cứ 30 phút có một trẻ mắc dị tật bẩm sinh nặng được sinh ra.

Siêu âm và MRI chẩn đoán bất thường ở thai nhi

Siêu âm chẩn đoán dị tật thai nhi Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Ảnh: BV Phụ sản Hà Nội

Siêu âm chẩn đoán dị tật thai nhi Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Ảnh: BV Phụ sản Hà Nội

Cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 là giai đoạn chứng kiến sự phát triển bùng nổ của hàng loạt thiết bị siêu âm. Từ đó đến nay, kỹ thuật siêu âm liên tục phát triển và được xem là "con mắt thứ 3" hỗ trợ bác sĩ trong việc khảo sát, chẩn đoán và phát hiện được những bất thường ở thai từ sớm. Tùy vào mốc thăm khám định kỳ bác sĩ sẽ chỉ định loại hình siêu âm phù hợp như: Siêu âm doppler màu, siêu âm đầu dò ma trận, siêu âm đầu dò âm đạo...

Khoảng 1/4 bất thường lớn ở thai nhi được phát hiện ở giai đoạn 12 tuần đầu tiên của thai kỳ. Siêu âm dị tật thai trong 3 tháng đầu thai kỳ cũng có thể chẩn đoán sớm tiền sản giật, từ đó hạn chế nguy cơ tử vong ở mẹ và con. Siêu âm ở khoảng 22 tuần có thể khảo sát chi tiết hầu hết hình thái học của thai, phát hiện nhiều loại dị tật. Siêu âm giai đoạn khoảng 32 tuần nhằm đánh giá lại hình thái học thai vì có thể xuất hiện những bất thường không phải bẩm sinh. Ngoài ra, cột mốc siêu âm cuối cần nhớ là 36 tuần. Trong quá trình khám thai, nếu cần xét nghiệm máu hoặc là có những diễn tiến bất thường thì bác sĩ sản có thể chỉ định siêu âm thêm.

Siêu âm là công cụ cơ bản để tầm soát và phát hiện dị tật thai nhi. Tuy nhiên, có những dị tật khó chẩn đoán qua siêu âm, đặc biệt là bất thường về hệ thần kinh trung ương. Trong những trường hợp này, MRI trở thành phương tiện hỗ trợ, cung cấp chẩn đoán toàn diện và chính xác hơn. Ví dụ, giãn não thất là dị tật thường gặp ở thai nhi nhưng siêu âm chỉ đo được kích thước giãn, khó xác định nguyên nhân. Nếu giãn não thất là một biểu hiện của những vấn đề phức tạp hơn, MRI có thể phát hiện các bất thường đi kèm và giúp bác sĩ đưa ra hướng xử trí phù hợp.

Chụp MRI tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Ảnh: BV Phụ sản Trung ương

Chụp MRI tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Ảnh: BV Phụ sản Trung ương

Kỹ thuật xét nghiệm Double test và Triple test phát hiện sớm dị tật bẩm sinh của thai nhi

Với sự tiến bộ của khoa học trong y học, nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, ngày nay các chuyên gia có thể phát hiện rất sớm các dị tật bẩm sinh của thai nhi thông qua việc lấy máu ngoại vi của bà mẹ qua các kỹ thuật xét nghiệm như Double test trong giai đoạn từ khi thai từ 11 đến 13 tuần tuổi (3 tháng đầu của thai kỳ); Triple test ở giai đoạn thai từ tuần 15 đến tuần thai 20, chính xác nhất là vào tuần thứ 16 - 18 (3 tháng giữa của thai kỳ).

Double test, Triple test là 2 phương pháp sàng lọc thường quy được áp dụng phổ biến và đều dựa trên phân tích máu mẹ, an toàn cho mẹ và thai nhi, giúp sàng lọc được những dị tật thường hay gặp nhất ở trẻ.

Double test là xét nghiệm kiểm tra và định lượng nồng độ 2 chất trong máu của mẹ do thai nhi tiết ra, đó là: PAPP-A (glycoprotein sản xuất từ nhau thai), β-hCG tự do (một thành phần trong cấu trúc của hCG (human Chorionic Gonadotropin) - một loại steroid do nhau thai sản xuất) kết hợp với siêu âm đo độ mờ da gáy, tuổi mẹ, tuổi thai nhi... Kết quả xét nghiệm sẽ giúp bác sĩ đánh giá nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể ở thai nhi như hội chứng Down (thừa nhiễm sắc thể 21), Edwards (thừa nhiễm sắc thể 18) và Patau (thừa nhiễm sắc thể 13).

Triple test là xét nghiệm định lượng nồng độ 3 chất trong máu của mẹ do thai nhi tiết ra bao gồm: AFP (alphafetoprotein) - một loại glycoprotein có nguồn gốc từ bào thai; uE3 (Unconjugated estriol) - do bào thai và nhau thai sản xuất; β-hCG tự do; kết hợp tính toán với tuổi mẹ, tuổi thai nhi,… Kết quả xét nghiệm sẽ giúp bác sĩ đánh giá nguy cơ bất thường nhiễm sắc thể ở thai nhi như hội chứng Down, Edwards và dị tật ống thần kinh.

Xét nghiệm không xâm lấn NIPT - Xét nghiệm sàng lọc toàn diện các bất thường di truyền trong thai kỳ

Dị tật về di truyền được phân thành làm các nhóm chính bao gồm: Bất thường về số lượng nhiễm sắc thể (các hội chứng thường gặp như Down, Edwards, Patau, Turner...); bất thường cấu trúc nhiễm sắc thể (hội chứng Digeorge,...); bất thường do đột biến trên các gene gây bệnh di truyền lặn (tan máu bẩm sinh Thalassemia, thiếu men G6PD, rối loạn chuyển hóa đường Galactose...) và bất thường do đột biến trên các gene gây bệnh di truyền trội (các bất thường xương sụn/tim mạch nguy hiểm, động kinh, xương thủy tinh, loạn sản xương, thiểu năng trí tuệ...).

Xét nghiệm NIPT (Non-invasive Prenatal Test) là phương pháp xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn được thực hiện bằng cách phân tích mẫu máu của mẹ. Từ đó, giải mã ADN tự do của thai nhi trong máu người mẹ nhằm sàng lọc sớm những dị tật phổ biến.

Xét nghiệm NIPT mở rộng - triSure Procare ra đời như một bước đổi mới, tiên phong trong lĩnh vực Sản - Nhi tại Việt Nam

Phương pháp NIPT truyền thống tập trung vào các bất thường liên quan đến số lượng nhiễm sắc thể thì NIPT mở rộng - triSure Procare sàng lọc được các bất thường liên quan đến cấu trúc nhiễm sắc thể (Hội chứng Digeorge); bất thường do đột biến trên các gene gây bệnh di truyền lặn/ di truyền trội. Đây được coi là một giải pháp với phạm vi sàng lọc toàn diện, đáp ứng và hỗ trợ phát hiện các hội chứng liên quan đến bất thường của thai nhi.

Theo ThS.BS. Nguyễn Cảnh Chương - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Đào tạo và Chỉ đạo tuyến, Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, bên cạnh các phương pháp sàng lọc truyền thống, triSure Procare cung cấp thêm những giải pháp mới trong việc phát hiện sớm nguy cơ bất thường trước sinh, đặc biệt là các bệnh lý đơn gene. Những bệnh lý này có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu không được sàng lọc và phát hiện kịp thời.

Kỹ thuật MicroArray giúp đánh giá bất thường nhiễm sắc thể trên toàn bộ 23 cặp nhiễm sắc thể

Từ những năm 1970, kỹ thuật lập Karyotype dựa trên nhuộm băng nhiễm sắc thể đã được sử dụng thường quy và trở thành tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bất thường nhiễm sắc thể. Tuy nhiên, kỹ thuật di truyền tế bào truyền thống này đòi hỏi phải nuôi cấy tế bào, đặc biệt trong chẩn đoán trước sinh thì việc nuôi cấy tế bào ối tương đối khó khăn và mất nhiều thời gian, kết quả thường chỉ có được sau 3-4 tuần.

Với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của các kỹ thuật sinh học phân tử, đặc biệt là kỹ thuật MicroArray giúp đánh giá bất thường nhiễm sắc thể trên toàn bộ 23 cặp nhiễm sắc thể với độ phân giải cao hơn nhiều so với kỹ thuật Karyotype.

Trong y học, MicroArray đã được áp dụng vào xét nghiệm mẫu máu, dịch ối, gai nhau và mô thai sẩy trong chẩn đoán trước sinh, sau sinh hoặc tế bào phôi sinh thiết trong xét nghiệm di truyền phôi trước làm tổ (PGT) nhằm phát hiện các bất thường về số lượng gene và nhiễm sắc thể gây ra các hội chứng dị tật bẩm sinh, thiểu năng trí tuệ.

Xét nghiệm phân tích bất thường nhiễm sắc thể bằng kỹ thuật MicroArray (aCGH/CMA, SNP array) - CytoScan 750K được thiết kế với 750.000 marker, trong đó có 550.000 marker SNPs và hơn 200.000 marker không đa hình, độ bao phủ 1 marker /1Kb, gene tham chiếu tương ứng 1 marker bao phủ 2kb nhằm phát hiện các vi lặp đoạn hoặc vi mất đoạn. Xét nghiệm có thể phát hiện mất cân bằng vật chất di truyền trong bộ nhiễm sắc thể (tăng hoặc mất vật chất di truyền) từ kích thước 200Kb trở lên; mất dạng dị hợp tử (AOH) > 5Mb, khảm các dòng tế bào > 15-20%.

Chọc ối chẩn đoán bất thường nhiễm sắc thể - Kỹ thuật Prenatal Bobs

Chọc hút ối dưới hướng dẫn của siêu âm. Ảnh: BV Phụ sản Trung ương

Chọc hút ối dưới hướng dẫn của siêu âm. Ảnh: BV Phụ sản Trung ương

Chọc ối xét nghiệm trước sinh là một phương pháp chẩn đoán có khả năng xác định thai nhi mang dị tật. Mục đích của chọc ối để xem thai nhi có những bất thường về gene, số lượng cũng như cấu trúc của 23 cặp nhiễm sắc thể hay không.

Chọc hút dịch ối là một thủ thuật lấy nước ối ra từ buồng tử cung để xét nghiệm. Toàn bộ quá trình chọc hút dịch ối được làm dưới sự hướng dẫn của siêu âm. Bác sĩ sẽ tìm vị trí thuận lợi để đâm một kim chọc hút chuyên dụng qua thành bụng thai phụ vào trong buồng tử cung và hút một lượng nước ối khoảng 10 - 15ml để làm xét nghiệm. Trong quá trình làm thủ thuật, thai phụ hoàn toàn tỉnh táo và không cần phải gây mê.

Chỉ định này dành cho các thai phụ có nguy cơ cao sinh con bất thường di truyền (các bất thường ở mức độ nhiễm sắc thể hay mức độ ADN), các đối tượng có bất thường hình thái được phát hiện bằng siêu âm trong đó đặc biệt các đối tượng có liên quan đến dị tật tim mạch... Xét nghiệm này được sử dụng để phát hiện các thêm hoặc mất DNA trong các vùng nhiễm sắc thể liên quan tới 9 hội chứng vi mất đoạn (microdeletion syndromes) và các nhiễm sắc thể 13, 18, 21, X và Y trên DNA của người sử dụng trên hệ thống thiết bị Luminex 100/20.

Hoàng Nam

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/nhung-tien-bo-y-hoc-vuot-troi-trong-sang-loc-chan-doan-truoc-sinh-169250225173639132.htm
Zalo