Giáo sư Tôn Thất Tùng trong hồi ức của học trò Đặng Hanh Đệ

GS. Tôn Thất Tùng - người thầy thuốc đã dành cả cuộc đời tận tụy cống hiến cho nền y học Việt Nam. Trong trí nhớ của nhiều người, GS. Tôn Thất Tùng là vị bác sĩ thiên tài, được nhiều thế hệ kính nể, khâm phục về tài năng và y đức.

GS. Tôn Thất Tùng. Ảnh: TL

GS. Tôn Thất Tùng. Ảnh: TL

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Bác Hồ gửi thư cho ngành Y tế, GS. Đặng Hanh Đệ (88 tuổi, nguyên Chủ nhiệm phẫu thuật Khoa Tim mạch, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức) - người được mệnh danh là "đôi tay vàng", người học trò xuất sắc kế tục sự nghiệp mổ tim từ cố GS. Tôn Thất Tùng đã chia sẻ với phóng viên Báo Sức khỏe và Đời sống về người thầy đáng kính của mình với những hồi ức không thể nào quên.

PV: Là người gắn bó và phụ mổ cho cố GS. Tôn Thất Tùng trong suốt nhiều năm, Giáo sư có thể chia sẻ về cố GS. Tôn Thất Tùng cũng như những điều mà Giáo sư học được từ người thầy lớn của mình?

GS. Đặng Hanh Đệ: Tôi được làm việc với thầy Tùng từ những ngày đầu năm 1960 đến năm 1982. Trong suốt 22 năm phụ mổ cho thầy, thầy đã truyền cho tôi nhiều kinh nghiệm xương máu, cho tôi nhiều lời khuyên quý báu mà suốt đời tôi không bao giờ quên.

GS. Đặng Hanh Đệ.

GS. Đặng Hanh Đệ.

Thầy là người luôn luôn đòi hỏi học trò, người giúp việc mình phải phấn đấu. Thầy rất ghét người "sáng cắp ô đi, chiều cắp về". Làm gì phải toàn tâm toàn ý. Thầy Tùng rất nóng tính, khi học trò không làm được thầy mắng ngay. Có khi thầy lấy dụng cụ mổ quật vào mu bàn tay đau lắm nhưng không ai dám kêu. Trong cuộc phẫu thuật rất căng thẳng, nhưng khi mổ xong thầy rất thân mật, cái hay ở chỗ đó.

Quan trọng nhất lúc làm việc với thầy Tùng là phải cố gắng thực hiện cho tốt, đừng bao giờ thất hứa hay để thầy không tin, đó là điều tối kỵ. Khi nhận việc phải đúng hẹn, tính cách thầy Tùng là thế.

Một tuần mấy buổi tôi đi phụ mổ cho thầy. Những năm đầu phụ mổ, tôi cũng bị thầy mắng vì làm không đúng ý thầy. Và phải sau 2 năm thì tôi không còn bị thầy mắng nữa. Chắc thầy thấy tôi là người chịu khó, làm được theo ý thầy.

Lời dạy của thầy rất cụ thể. Có hai điều thầy dạy mà tôi GS. Tôn Thất Tùng nghiên cứu trên bệnh phẩm - gan khô (năm 1962). không bao giờ quên. Đó là, "trước hết không được làm điều gì có hại cho người bệnh". Ý nghĩa của câu này là mình đừng biến người bệnh thành vật thí nghiệm.

Điều thứ hai, thầy dạy: Khi mổ cho bệnh nhân xong thì buổi tối hôm đó, trước khi đi ngủ phải suy nghĩ xem ngày hôm nay mình đã làm tốt chưa, có chỗ nào chưa tốt, nếu lần sau làm lại thì làm thế nào tốt hơn. Và nghĩ luôn ca mổ cho ngày mai sẽ làm như thế nào.

Thầy nói: "Anh phải suy nghĩ cũng như có những dự kiến trước cho cuộc mổ vào hôm sau để không bị động. Bởi vì có những bệnh lúc trước khi mổ chẩn đoán là bệnh này nhưng khi mổ ra lại sang bệnh khác. Lúc đó không thể đứng nhìn mà trong đầu phải chuẩn bị sẵn, để không bị động".

PV: Cố GS. Tôn Thất Tùng là người đầu tiên nghiên cứu thành công phương pháp "cắt gan có kế hoạch" còn được gọi là "phương pháp cắt gan khô", Giáo sư có thể chia sẻ về phương pháp này?

GS. Đặng Hanh Đệ: Phương pháp "cắt gan có kế hoạch" còn được gọi là "phương pháp mổ gan khô" hay "phương pháp Tôn Thất Tùng". Phương pháp này cho phép cắt gan chỉ mất 4-8 phút, trong khi nếu theo phương pháp vẫn được coi là kinh điển mang tên vị giáo sư người Pháp Lortat-Jacob thì phải mất 3-6 giờ. Sáng chế của thầy không phải là do sự "khéo tay", thay đổi kỹ xảo vụn vặt, như có người lầm tưởng, mà chính là bắt nguồn từ những nghiên cứu cơ bản thực hiện trong những năm 1935-1939.

Lần đầu tiên trong nền y học thế giới, thầy Tùng đã mô tả các mạch máu và ống mật trong gan sau khi phẫu tích hơn 200 lá gan người chết. Trên cơ sở đó thầy đã viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp với nhan đề: "Cách phân chia mạch máu của gan". Đây là một công trình thuộc về giải phẫu loài người chứ không phải riêng cho Việt Nam nên thầy đã hướng nghiên cứu của mình vào việc cắt gan, lĩnh vực mà cả thế giới chưa có ai dám đề cập. Bản luận án được đánh giá rất cao và trở thành tiền đề cho những công trình khoa học nổi tiếng của thầy. Với bản luận án này, thầy Tùng đã được Trường Đại học Tổng hợp Paris tặng Huy chương Bạc.

GS. Tôn Thất Tùng nghiên cứu trên bệnh phẩm - gan khô (năm 1962). Ảnh: TL

GS. Tôn Thất Tùng nghiên cứu trên bệnh phẩm - gan khô (năm 1962). Ảnh: TL

Thầy Tùng chỉ mổ vào 3 buổi sáng thứ Hai, Tư, Sáu hằng tuần trong những năm 1960. Những ngày còn lại thầy thường xuống phòng đại thể, nơi làm các tiêu bản cho giải phẫu bệnh và lưu trữ những bệnh phẩm quý hiếm. BS. Bằng - Chủ nhiệm khoa sẽ chuẩn bị sẵn các gan được ngâm formol để phẫu tích. Thầy thích dùng nạo (curette) để nạo bỏ nhu mô gan từ cuống, các thành phần khác (mạch máu, đường mật) dai hơn nên còn trơ lại sau khi nạo.

Với cách làm này cho hình ảnh trong không gian ba chiều quan hệ, vị trí và mạch máu (chủ yếu là tĩnh mạch cửa) và đường mật, vừa nạo vừa học thuộc. Nhưng formol là thứ nước rất hăng và cay, trong khi làm nó bốc hơi vào mũi sặc sụa và rất cay mắt, tôi phụ thầy, mặc dù đeo khẩu trang nhưng nhiều lúc cay mắt quá, bật ho không chịu được phải bỏ ra ngoài hít thở một lúc, thế mà thầy không những không đeo khẩu trang lại còn nạo cả tiếng đồng hồ. Phải đến cả trăm cái gan được phẫu tích như vậy nên thầy thuộc lòng sự phân chia của các mạch máu trong gan, quan hệ của các mạch này so với bề mặt ngoài gan. Chính cơ sở giải phẫu này làm tiền đề cho công trình nổi tiếng thế giới của thầy: "Cắt gan theo phương pháp Tôn Thất Tùng".

Nếu như không có cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm thì thế giới còn biết đến sớm hơn vì công trình giải phẫu trong gan đã được hoàn thiện từ năm 1939.

PV: Còn ca mổ tim hở đầu tiên của cố GS. Tôn Thất Tùng có điều gì đặc biệt, thưa Giáo sư?

GS. Đặng Hanh Đệ: Việc triển khai mổ tim hở ở Việt Nam là cả một công trình. Lúc đó (năm 1964) quan hệ của nước ta chủ yếu là với các nước XHCN. Việc đi ra nước ngoài học cũng rất khó khăn, trong nước chuẩn bị đối phó với chiến tranh phá hoại, mặt khác còn chi viện cho miền Nam.

Thiếu thốn vật chất là điều đương nhiên, tất cả chỉ được mua theo tem phiếu. Bên cạnh đó, một khó khăn với những người làm khoa học là không có sách và tạp chí để đọc, thỉnh thoảng mới có sách, báo in lại từ Trung Quốc.

Trong hoàn cảnh như vậy mà thầy dám nghĩ đến mổ tim hở, một cuộc mổ đòi hỏi sự làm việc đồng bộ của nhiều người, nhiều chuyên khoa mà trong tay chẳng có lấy một thứ gì: cái kim, sợi chỉ, ống dẫn, chai lọ dẫn lưu… những thứ mà ngày nay các thế hệ đi sau cứ ngỡ trong truyện cổ tích.

Thực tế là vậy. Thầy là người chỉ huy, đưa ra yêu cầu, còn chúng tôi phải tìm mọi cách mà khắc phục và thực hiện, mày mò, xàng xê, cải tiến, cái khó nhất là chưa hình dung được công việc đó ra sao. Sau bao nhiêu lần mổ chó thực nghiệm, thất bại, thành công… vẫn không nản chí.

Ngày mổ trên người, chúng tôi hết sức hồi hộp, lo lắng, tôi không nhớ rõ nhưng chắc thầy - người chỉ huy, đứng mũi chịu sào còn lo lắng gấp bội.

Cuộc mổ thuận lợi, không một trục trặc nào. Hết sức phấn khởi là ngày thứ ba sau mổ, Bác Hồ đến tận giường thăm bệnh nhân và không biết bằng con đường nào mà thầy đã nhận được thư chúc mừng của BS. Gibbon (Mỹ) - người mở đầu cho ngành mổ tim hở với máy tim phổi trên thế giới.

Thầy nói với tôi khi đưa tấm ảnh của BS. Gibbon và bức thư chúc mừng: "Mỹ lần đầu mổ tim hở năm 1954, ở ta là năm 1965, khoảng cách có 11 năm". Tôi hiểu ý thầy, ở một hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn như thế mà ta cũng đã làm được chỉ sau một thời gian ngắn. Rất tiếc nước ta do hoàn cảnh chiến tranh mà không thể vươn xa hơn, tất cả phải xếp lại, đợi đến những năm sau này mới cố bắt kịp với trình độ trong khu vực và trên thế giới. Tiếc là do sửa phòng mổ, dọn nhà nên đã để thất lạc bức thư cùng ảnh của ông Gibbon.

GS. Tôn Thất Tùng hướng dẫn học trò trong một giờ giảng giải phẫu. Ảnh: TL

GS. Tôn Thất Tùng hướng dẫn học trò trong một giờ giảng giải phẫu. Ảnh: TL

PV: Giáo sư từng chia sẻ về ca mổ tim cuối cùng của cố GS. Tôn Thất Tùng, đó hẳn là một ngày không thể nào quên?

GS. Đặng Hanh Đệ: Ca mổ này tôi không bao giờ quên, ca mổ cho một thanh niên 18 tuổi, mắc bệnh tim bẩm sinh. Chàng thanh niên đầy khát khao muốn cống hiến sức trẻ cho đất nước đã đăng ký nhập ngũ. Nhưng điều không may mắn, khi khám sức khỏe, bác sĩ phát hiện anh mắc bệnh tim, dị tật này đáng lẽ phải can thiệp trước 5 tuổi.

Hôm đó, thầy Tùng mổ còn tôi là người phụ. Trong lúc phẫu thuật, bệnh nhân bị chảy máu dữ dội từ hai mạch máu lớn nhất trong cơ thể, máu réo lên trong ngực, sục bọt. Chỉ trong chớp mắt, lồng ngực của bệnh nhân đầy máu không còn nhìn thấy gì nữa. Một phút sau bệnh nhân qua đời. Thật là một tình huống khủng khiếp trong đời, tôi chưa bao giờ gặp. Đây là cú sốc lớn đối với thầy, một người dù đã trải qua biết bao tình huống éo le, nguy nan, nay cũng phải gục ngã.

Khi bệnh nhân tử vong, thầy Tùng cởi áo, găng tay và bước ra ngoài. Tôi ở lại đóng lồng ngực cho bệnh nhân. Trong phòng lúc đó im phăng phắc không ai nói với ai một lời, chỉ còn có tiếng lạch cạch của hộ lý đang lau máu trên sàn. Tôi khâu ngực cho bệnh nhân xong rồi ra khỏi phòng mổ.

Tôi không thể quên được hình ảnh thầy ngồi gục đầu dưới chân cầu thang phòng mổ. Tôi cố bước đi thật nhẹ nhưng thầy nghe được có tiếng chân người bước phía sau. Tiếng chân gần lại, thầy nhìn lên, tôi cũng nhìn vào mắt thầy. Lúc đó hai con mắt của thầy hằng ngày sắc sảo, tinh anh bao nhiêu thì lúc đó buồn không thể tả được.

Thầy nói: "Thôi, tôi không mổ tim nữa đâu, từ nay anh làm đi". Nỗi đau thương trùm lên trong tôi khi nhìn người thầy của mình đứng trước cái chết của bệnh nhân mà không sao cứu nổi. Lúc đó, nhìn vào mắt thầy, tôi chỉ nói được từ: Vâng.

Ca bệnh đó xảy ra vào năm 1972, từ đó thầy Tùng đã không mổ tim nữa. Tuy thầy không trực tiếp mổ, nhưng thầy vẫn luôn theo sát và hướng dẫn tôi để phát triển ngành mổ tim.

PV: Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của GS. Đặng Hanh Đệ!

Đỗ Vi (thực hiện)

Nguồn SK&ĐS: https://suckhoedoisong.vn/giao-su-ton-that-tung-trong-hoi-uc-cua-hoc-tro-dang-hanh-de-169250225111930929.htm
Zalo