Nhiều điều thú vị về tên gọi, bút danh của Bác Hồ
Trong suốt cuộc đời của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi, bí danh hay bút danh khác nhau. Mỗi tên gọi, bí danh hay bút danh của Bác đều có một ý nghĩa riêng, phục vụ cho lợi ích cách mạng, phản ánh nhân cách, tư tưởng lớn lao của Người về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân.
Khi hoạt động cách mạng
Tên khai sinh của Bác Hồ là Nguyễn Sinh Cung, sinh 1890 tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Trong một bài viết của Người, năm 1954, Bác ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn. Tháng 9/1901, nhân dịp cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ Bác Hồ) chuyển về sống ở làng Kim Liên, làm lễ “chào làng” cho 2 con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh Cung). Ngày 5/6/1911, Bác Hồ rời Việt Nam làm việc trên chiếc tàu Pháp lấy tên Văn Ba. Cuối năm 1912, từ New York (Mỹ), Bác Hồ gửi thư cho khâm sứ Trung Kỳ nhờ tìm địa chỉ của thân phụ, ký tên Paul Tất Thành. Năm 1919, ở Pháp, cùng sinh hoạt chung với các ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Bác lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Từ năm 1922 - 1930, viết cho báo Le Paria và L’Humanité, Bác lấy bút danh N.A.Q, Ng.A.Q. Trong thời gian ở Liên Xô từ năm 1923 - 1924 và năm 1934 - 1939, Bác dùng tên Lin và tên này xuất hiện lần đầu trong bức điện thư gửi Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đề ngày 14/4/1924. Tháng 10/1934, Người được nhận vào Trường Quốc tế Lê-nin - Liên Xô, năm học 1934 - 1935, số hiệu 375. Tháng 8/1935, Bác dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản.
Ngày 11/11/1924, Bác Hồ đến Quảng Châu (Trung Quốc) với giấy tùy thân mang tên Lý Thụy. Ngoài bí danh Lý Thụy làm phiên dịch trong Văn phòng của Đoàn cố vấn Xô Viết, Người cũng có biệt danh là Lý An Nam, bí danh Ông Lu. Khi hoạt động ở Trung Quốc, có 6 lá thư Bác Hồ ký tên Nilopxki; Người còn có tên Vương, là giảng viên huấn luyện chính trị tại Quảng Châu. Ở đây, năm 1931, trong thẻ căn cước của Bác ghi là Tống Văn Sơ khi Người bị bắt ở số 186, phố Tam Lung (Hongkong), ngày 6/6/1931. Năm 1933, Bác lấy bí danh New Man gửi thư cho luật sư Lôdơbi, người có công giúp Tống Văn Sơ ra khỏi nhà tù Anh ở Hongkong. Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938, Bác dùng tên Hồ Quang và nhờ có quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc nên hoạt động của Người dễ dàng. Tại Lan Châu - thủ phủ tỉnh Cam Túc (Trung Quốc), Bác mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá, tên Hồ Quang.

Ngày 13/8/1942, để đánh lạc hướng khi hoạt động, Bác lấy tên mới là Hồ Chí Minh. Ngày 27/8/1942, tại Túc Vinh, Người bị bắt. Khi kiểm soát giấy tờ thấy thẻ hội viên Hồ Chí Minh là “Hội Ký giả thanh niên Trung Quốc”, bị phe Tưởng Giới Thạch nghi là gián điệp cộng sản và bắt Người giải đi giam qua 13 huyện thị của tỉnh Quảng Tây. Đến ngày 10/9/1943, Bác mới được thả. Khi đặt chân tới Thái Lan, thẻ nhập cảnh của Bác mang tên Nguyễn Lai, là một Hoa kiều. Năm 1928, khi họp với người Việt cư ngụ tại Thái Lan, Người tự giới thiệu là Thọ, biệt hiệu Nam Sơn. Đầu tháng 8/1928, Bác tới Udon, lấy tên là Chín. Nhiều người Thái Lan gọi Bác là Thầu Chín hay ông già Chín.
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, xuất hiện tên Hồ Chủ Tịch, Hồ Chí Minh, có lúc Người ký tên Hồ gửi thư cho các ông Becna, Fenn cám ơn về sự giúp đỡ đối với các học viên lớp vô tuyến điện. Tháng 8/1941, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 ở Pắc Pó - Cao Bằng, tên gọi “Bác” xuất hiện và thông dụng. Năm 1946, Người ký nhiều thư tên “Bác Hồ” gửi cho các thanh, thiếu niên, học sinh và tên này được sử dụng rộng rãi nhất.
Bút danh của Bác trên báo
Là người sáng lập của Báo chí cách mạng Việt Nam, Bác Hồ sử dụng trên 170 bút danh để viết trên 2.000 bài báo bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, nhiều thể loại khác nhau (chính luận, tiểu phẩm, truyện, ký và thơ...), đề cập đến toàn bộ các vấn đề rộng lớn của cách mạng và đời sống xã hội. Có thể tạm nhớ một số bút danh. Cụ thể, năm 1938, từ Trung Quốc, Bác Hồ viết hàng chục bài gửi về nước đăng trên Notre Voix, ký tên P.C. Lin, P.C. Line, Line và các bút danh này có bài viết trên báo Dân Chúng xuất bản tại Saigon. Báo đăng liên tiếp 3 số trong tháng 8/1939. Từ 15/11 - 18/12/1940, với bút hiệu Bình Sơn, Bác viết 12 bài đăng trên “Cứu Vong Nhật Báo” của Trung Quốc. Năm 1951, thông qua chuyện của Liên Xô, Bác dùng bút danh Nguyễn Du Kích viết cuốn “Tỉnh ủy bí mật”. Tháng 3/1953, Bác lấy bút danh Nguyên viết bài “Thư từ Việt Nam - Những con voi là những con muỗi”, đăng trên báo Temps Nouveax - Thời Mới của Liên Xô.
Trên Báo Cứu Quốc - Cơ quan ngôn luận của Tổng bộ Việt Minh, với các bút danh Chiến Thắng, Đ.X, Q.T, Q.Th ,KT, K.Đ, Lê Quyết Thắng, Chiến Sỹ, Bác viết trên 400 bài, nội dung phê phán như bài “Bệnh khẩu hiệu”, nhìn lại sự việc, như: Bài “Trở lại vấn đề thi đua ái quốc”, “Thất bại và thành công”, “Vừa đi đường vừa kể chuyện về Các-Mác”... Với bút danh T.L, Trần Lực, C.K, Lê Nhân, C.B giai đoạn 1950 - 1969, Bác viết khoảng 250 bài đăng trên báo Sự Thật, Nhân Dân. Một số bài, như: “Có phê bình thì phải biết tự phê bình”, “Đẩy mạnh phong trào du kích”, “Người đảng viên Đảng Lao động phải như thế nào?”, “Về đạo đức cách mạng”, “Sửa lối làm việc”.
Viết bài ở mục “Dành cho phụ nữ” ở Báo Thanh Niên, Bác lấy tên Mộng Liên, Kim Oanh. Các bài viết nêu về tấm gương anh hùng của phụ nữ Việt Nam từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Nguyễn Thị Minh Khai, kêu gọi phụ nữ nêu gương. Bài viết trên Báo Vô Sản - Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, Bác dùng các bút danh Đông Dương, Công Nhân, Chiến Đấu... Viết ở mục “Thư bạn đọc”, Bác dùng bút danh Nguyễn Kim, Dân Việt... Theo Trang điện tử Nhà Văn hóa Thanh niên TP. Hồ Chí Minh và các nhà nghiên cứu, đã có 175 tên gọi, bí danh, bút danh, nhưng hiện vẫn còn khoảng 30 tên gọi, bí danh, bút danh được cho là của Bác Hồ, đang truy nguồn làm rõ nên vẫn chưa công bố.
Ở Đề án nghiên cứu “Hồ Chí Minh - nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà báo trong thời gian làm việc ở Quốc tế Cộng sản (1923 - 1938)” và nghiên cứu “Các bí danh và bút danh của Hồ Chí Minh”, được Viện Nghiên cứu Phương Đông công bố năm 2021 cho thấy, Bác Hồ đến thăm nhiều nước trên thế giới, làm việc với nhiều báo và tạp chí nước ngoài. Ngòi bút của Bác ghi dấu ấn ở nhiều bài báo chính trị cùng sách báo châm biếm, tiểu luận, truyện ngắn và thơ trữ tình. Đã thống kê được hơn 160 bí danh và bút danh của Bác trong các hoạt động cách mạng, chính trị, văn học và báo chí.