Nguyễn Ngọc Tư và tiếng gọi tha thiết của chân trời
'Tiếng gọi chân trời' không chỉ là một tổ hợp những con chữ trải trên trang giấy, mà là cuộc hành trình vượt thời không về những chiều kích của thiên nhiên, thời cuộc và trái tim con người.
Sông - biểu tượng nghệ thuật khắc khoải
Nguyễn Ngọc Tư đã trở thành nhà văn tiêu biểu của văn học đương đại Nam Bộ với hơn 20 đầu sách xuất bản, trong đó có tác phẩm là best-seller với hơn 150.000 ấn phẩm, hàng loạt công trình nghiên cứu lớn nhỏ về phong cách sáng tác, biểu tượng nghệ thuật,... xoay quanh.
Liệu ta còn có thể viết gì về cô, về những tác phẩm mà có lẽ vẫn sẽ là cánh cổng thần kỳ lập tức đưa ta ùa về miền Tây Nam Bộ? Tựu trung, điều làm nên nét đặc sắc và sức hấp dẫn riêng biệt ở thế giới của Tư chính là cảnh sắc và con người đậm chất miền Tây bao bọc trong lớp văn chương trĩu nặng tựa phù sa.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Nếu trong “Ngọn đèn không tắt”, “Giao thừa”, “Nước chảy mây trôi”, “Cánh đồng bất tận”, “Hành lý hư vô”, “Biên sử nước” đến tập truyện ngắn gần nhất là “Trôi”, những dòng sông đều in bóng trong mỗi trang văn Tư ký họa, thì trong “Tiếng gọi chân trời” quy luật ấy cũng không ngoại lệ.
Sông nước xuất hiện trong văn chương của cô như một thứ ám ảnh kỳ lạ. Không chỉ bởi viết về miền sông nước thì phải tả sông, như nói về sơn cước thì phải tả núi non trùng điệp. Trong tác phẩm của Nguyễn Ngọc Tư, sông nước và những gì gắn liền với nó xuất hiện như máu thịt, như một phần hồn cốt đã hằn in trong cả trang viết lẫn con người.
Với những ghi chép tản mạn, “Tiếng gọi chân trời” có thể không xây dựng các hình ảnh nghệ thuật với nhiều hàm nghĩa như trong tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư, nhưng đây là mảnh đất để cô trải lòng về những điều tưởng chừng vụn vặt mà lại mang ý nghĩa to lớn, giàu sức gợi và cũng đầy ám ảnh.
Văn hóa sông nước khúc xạ vào văn chương Nguyễn Ngọc Tư những bức tranh muôn hình vạn trạng của đời sống Nam Bộ, đâu đâu cũng cựa quậy những dòng chảy thẳm buồn. Trong “Tiếng gọi chân trời”, những dòng chảy, có lúc nó là lớp ký ức ngọt ngào giòn tan trong cơn mưa rào ào qua xóm Bà Điều; trong con kinh Rạch Rập hiền từ đón đứa trẻ năm nao vào lòng mặt nước không chút gợn; hay vạt nắng cuối chiều kéo dài bóng đình Tân Hưng ra tận mé nước.
Nhưng có lúc nó đắng đót chua cay trong cái nắng giáp hạt “đến bạc xương, đến giòn rễ cây” ở lớp hiện thực khô cong về cánh đồng nứt nẻ, những liếp mía chết khô. Với bao trắc ẩn, ái ngại, và cả giật mình dồn về vùng đồng bằng nức tiếng trù phú này. Như ý nghĩ về sắp tới nước có đủ chan ngập đồng mình của nhân vật chị (Những cuộc trôi khô); hay những can nước ngọt chắt chiu, những con kinh trơ lòng trước cơn bệnh ngặt mang tên hạn mặn (Trơ lòng).
Ông già không tên và nhân vật tôi trong “Ngắm nước” tự nhận mình là hai kẻ đi lạc, bởi “đâu ai khác dành cả tiếng đồng hồ nhìn nước ra vô bãi” ở quán Đắng khi “chung quanh người ta đang nhìn nhau, nhìn điện thoại”. Và nước, còn là sợi dây lần về ký ức, với “loạt mùi từ bỏ danh tính riêng của mình để hòa vào nước, thành một khối hương ngòn ngọt đi qua những xóm làng, những đập tràn, làm thành ký ức” về một miền Tây từng trù phú, phồn sinh, về con nước lớn ròng làm nên những vụ mùa bội thu, những đồng bằng màu mỡ.
Tựa những vòng tròn đồng tâm, khi sông nước khắc khoải, nó cũng khiến nhân vật và cả tác giả nếm trải nỗi đau. Niềm đau ấy có thể khởi nguồn từ sự nghèo khó, hệ lụy của quá trình đô thị hóa, quá trình đổi thay của thời cuộc, và sự cô đơn của con người trước sông nước bao la. Sông nước trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư, vì lẽ đó, vừa là cảnh quan đặc trưng, là bối cảnh sinh hoạt, vừa là một phần của tấm thẻ căn cước nhận diện mỗi con người.
Những chân dung đau đáu
“Tiếng gọi chân trời” lần sâu vào nỗi khắc khoải bên trong con người qua những đổi thay hữu hình và vô hình. Sông nước và nỗi cô đơn, cảnh vật và con người trong tản văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng không tồn tại tách biệt mà trở thành hai đường thẳng cùng song hành với nhau trong mê lộ văn chương. Một đường thẳng mở ra chiều rộng của vùng không gian địa lý - văn hóa đặc thù, một đường thẳng lại đi vào chiều sâu của thân phận và trái tim con người.
Và cũng trên chính mặt đất, dòng sông, bầu trời đó, con người hoặc bắt đầu mắc kẹt trong nỗi cô đơn dâng đầy bởi con nước, hoặc bị cám dỗ bởi những tham vọng vật chất và bắt đầu đổi thay. Họ là những người phụ nữ, những người đàn ông, những đứa trẻ, những kẻ lạc thời hoặc gắn chặt đời mình với tảo tần, hy sinh hoặc bị ám ảnh và bẻ cong bởi thời cuộc, hoặc như một nốt nhạc đi lạc, bị người đời gắn nhãn lập dị, khác thường.
Khắc khoải và day dứt, bạc rạc và nổi trôi, chân dung người phụ nữ là nét vẽ của tần tảo, hy sinh. Người mẹ của nhân vật tôi được miêu tả với chiếc bả vai bén ngót nhấp nhô sau làn áo mỏng, đôi cánh của tự do bị giấu đi hoặc bị cắt bỏ bởi chính mình (Cánh); nhân vật khác lại hiện lên với nụ cười đông cứng trước rừng ống kính đen ngòm về người đàn bà “dẫu đang tung chài, hái bông điên điển, hay rửa bông súng với hậu cảnh chòm thốt nốt, kiểu gì thì cũng đẫm mồ hôi” (Bóng của mồ hôi); cô gái tên Ngọ hiện lên với hình ảnh cơn đau quặn bụng ở mỗi kỳ “mắc kẹt” (từ lóng chỉ kỳ kinh nguyệt của phụ nữ ở miền Tây), có chăng cũng đang mắc kẹt trong tấm lưới số phận của chính mình.
Hay thím Tam suốt ngày đi mót lá cất nhà cho chồng đốt, mợ Tòng nhấm nháp giữa hai răng mẻ thứ muối ớt đắp trên mấy vết bầm ở gò má, cẳng tay, dì Lanh, cô ba Ái trong men tình mờ ảo (Vùng vẫy),… luôn có một sợi dây vô hình trói buộc họ với nỗi đau nào đó. Và họ, đang tâm nhấm nháp dư vị của nỗi đau bọc đường.

Bìa cuốn “Tiếng gọi chân trời” của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Còn những con người sống bên lề ký ức, họ kỳ quặc, quái lạ, họ không thuộc về một đám đông nào. Nhưng khi nhìn đủ sâu, nghe đủ kỹ, ta mới vỡ ra rằng chính họ là những con người đáng thương và đáng trân trọng. “Thầy Thủy cụt giò” viết lên lá bức chúc thư cho xương thịt bạn bè bị vùi trong đất, ông Chín Rô vá sông rách, núi rách, cây rách bằng đôi tay không bao giờ nghỉ (Ẩn hiện sau sương); còn ông già héo quắt kéo va li hồng nhẩn nha bên đoạn đường ngang khu chợ (Bên cõi), ông vừa nói cho ta biết những mưu cầu vật chất sau rốt chỉ là khói sương.
Và đã nói về Nguyễn Ngọc Tư thì không thể không viết về nỗi cô đơn muôn trạng bám sâu trong mỗi nhân vật. Nỗi cô đơn, chúng thường hiển hiện khi con người đứng giữa sông nước bao la. Họ thảng thốt về người chồng hiền lành nay biến thành kẻ khác với những sát phạt hơn thua không hồi kết trên cõi mạng (Dấu đã không tan). Họ giật mình vì trong xóm chợt có ai đó vì ranh đất mà vác phảng rượt chém nhau, ai đó vì tiếng nói thấp cao mà đem lửa đốt nhà (Phúc lành cũng tận). Họ cô quạnh trước những “con mắt điện tử” trừng trừng xoi mói của điện thoại thông minh, mạng xã hội, bày ra những cuộc oằn mình thảng thốt, những trượt chân biền biệt dưới ánh nhìn vô cảm, dửng dưng (Trong rừng mắt).
Nhưng ngay khi cám dỗ biến người trẻ thành những cánh chim mải miết bay đến đô thành trong “tiếng gọi” lập nghiệp, mưu sinh, thì cũng chính “tiếng gọi” xưa đưa họ về với quê hương, nguồn cội (Tháng Giêng ngọn gió ra đi, Cũng có người về, Gió thổi đồng nhà). Dẫu bị cám dỗ, đổi thay, cõi lòng lạnh trơ hóa đá, tình thương vẫn có thể chiến thắng và lần nữa biến vùng hoang địa mênh mông trong trái tim con người thành thảo nguyên xanh ngát của hồn hậu nghĩa tình, chân thành hào hiệp - dòng chảy bao đời vẫn thắm thiết trong huyết quản người miền Tây.
Sau tất cả, ta bước ra khỏi trang sách, với tình yêu và niềm tin vẫn còn. Thoạt đầu còn ngờ ngợ, như thể đã lãng quên ký ức, nhưng một khi tâm tư đã tuôn chảy, ký ức về những dòng chảy phía “chân trời” lại cuồn cuộn trở về. Bởi “sao mà dừng nghỉ được yêu thương, làm gì có mùa mà chia nó”.