Kỷ niệm đêm giao thừa cuối cùng của cuộc chiến

Cuối năm 1974, đơn vị tôi chuyển quân từ huyện Kế Sách (Sóc Trăng) sang huyện Cầu Kè (Trà Vinh), quê hương của nữ anh hùng Nguyễn Thị Út, tức Út Tịch - nhân vật chính trong truyện 'Người mẹ cầm súng' của nhà văn Nguyễn Thi.

Bộ đội giải phóng đọc thư Tết từ quê nhà. Ảnh: TTXVN

Bộ đội giải phóng đọc thư Tết từ quê nhà. Ảnh: TTXVN

Hồi ấy, tôi ở Đại đội 4, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1 (còn gọi là Đoàn U Minh hay Đoàn Hậu Giang, do đồng chí Phạm Văn Trà là Trung đoàn trưởng). Trong một trận đánh nhỏ ở cù lao Hàm Tân, tôi bị thương ở chân, phải về trạm xá của Trung đoàn để điều trị. Tiếng là trạm xá, nhưng nơi đó chỉ là một cái lán được dựng trên nền đất khô ráo, gần một con kinh nhỏ, cách kinh Đường Đức không xa. Ngay buổi nhập viện đầu tiên, tôi gặp y sĩ, Trạm trưởng Nguyễn Thế Phiệt, người cao to, tóc xoăn, quê ở Hà Tây. Anh nói: “Ở đây, thuốc men thì hạn chế, chế độ ăn uống cũng bình thường. Quan trọng là chúng mình gắn bó với nhau bằng tình đồng đội, lúc bình thường cũng như lúc gian khó, luôn có nhau. Chúng tôi sẽ có trách nhiệm với các anh em như những người lính cùng chung chiến hào. Hãy tin tưởng ở chúng tôi!”.

Đúng chiều Ba mươi âm lịch - ngày cuối cùng của năm Giáp Dần, có một anh đội mũ tai bèo, mặt hiền khô bất ngờ đi vào trạm xá. Anh nói: “Tôi là Bách. Nghe nói ở đây có mấy anh em quê Hà Nội nên ghé thăm tìm đồng hương”. Tôi mừng lắm và nói: “Ở đây chúng em có hai người ở Hà Nội. Em ở đường Nam Bộ, còn Hùng ở phố Thợ Nhuộm”. Anh Bách tự giới thiệu: “Mình là Bách, Phùng Đăng Bách, nhà ở phố Thi Sách. Tốt nghiệp Tổng hợp Sinh, vào làm phóng viên chiến trường của Thông tấn xã. Cũng được 1 - 2 năm rồi. Cứ của tụi mình cách đây cũng không xa lắm. Năm hết Tết đến cũng buồn. Bởi vậy mới đi tìm anh em”.

Một cuộc gặp gỡ thật bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng, vui hết chỗ nói, nhất là lại gặp nhau trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt. “Thật hy hữu! Độc nhất vô nhị!” - anh Bá và anh Dũng, một người Thanh Hóa, một người Nghệ An, cũng là hai người đang nằm viện như chúng tôi, nhận xét.

Sau đôi câu trao đi đổi lại chóng vánh, chúng tôi nhất trí cùng nhau đón Giao thừa tại trạm xá. Việc chuẩn bị đồ ăn thức uống nhanh gọn vô cùng và đơn giản đến mức không thể đơn giản hơn. Chúng tôi gom tiền mua một ít mực khô, một ít đậu phộng (lạc), vài chai bia, vài xị rượu đế, vài bao thuốc lá... Trước lúc vào cuộc, chúng tôi nhận được “quà Tết bổ sung” của Hội Phụ nữ huyện Cầu Kè. Tuy chỉ là một cành mai nho nhỏ, mấy đòn bánh tét xinh xinh, mấy gói bánh in* be bé của mấy má, mấy chị, nhưng lòng chúng tôi ấm áp vô cùng.

Trước lúc “tống cựu nghinh tân”, tôi nổi hứng đọc một bài thơ con cóc:

“Tết này vẫn có rượu, có hoa
Gặp nhau, toàn những kẻ xa nhà
Vui xuân, nhâm nhi cùng bè bạn
Hẹn một ngày mai... giữa quê ta”.

Hùng cũng không kém cạnh:

“Trà Vinh gạo trắng nước trong
Trên bờ muỗi vắt, dưới sông lục bình
Xuân về, lại nhớ em xinh
Biết bao giờ tỉnh tình tinh...
chúng mình...”.

Anh Bá đọc luôn:

“Tết này chỉ có mấy chúng ta
Chỉ có đàn ông chẳng đàn bà
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Đợi hết chiến tranh sẽ có mà!”.

Anh Dũng nói thêm: “Có mỗi bài thơ con cóc trong kho tàng chuyện tiếu lâm. Người thứ nhất mở đầu: “Con cóc trong hang/ Con cóc nhảy ra”. Người thứ hai triển khai: “Con cóc nhảy ra/ Con cóc ngồi đấy”. Người thứ ba kết lại: “Con cóc ngồi đấy/ Con cóc nhảy đi...”. Thế mà có người còn tán: “Con cóc nhảy ra” tức là con cóc nhập thế. Con cóc ngồi đấy tức là con cóc ngẫm nghĩ, tính toán. “Con cóc nhảy đi” tức là con cóc tiếp tục hành trình... Nghe rõ buồn cười! Còn thơ của chúng ta vừa gần gũi cuộc sống, vừa có vần, hợp cảnh, hợp người, đọc lên nghe cũng rất vui. Tuy là thơ con cóc nhưng lại là thơ... cóc cụ”.

Nghe anh Dũng tán kiểu “mẹ hát con khen hay” mà cũng rất “vào”, chúng tôi cười vang.

Anh Bách cũng cười: "Đón xuân, tuy chỉ có đàn ông, chẳng có em xinh, nhưng có rượu, có thơ, có bạn, có bè là vui rồi! Mà chuyện này chắc gì trăm năm sau đã có!".

Nghe anh Bách nói thế, tự dưng người nào người nấy như muốn trào nước mắt.

Còn 1 tiếng nữa năm mới mới đến. Vậy mà quanh chúng tôi bỗng ran ran tiếng pháo. Chúng tôi chưa kịp hiểu ra thì một người là dân Nam Bộ nói: “Giao thừa rồi đó. Ở trong này, giờ miền Nam sớm hơn giờ miền Bắc một tiếng đồng hồ”. Thì ra, mặc dù ở Nam Bộ, những lính Bắc nhà ta, trong đó có chúng tôi, người nào có đồng hồ cũng vẫn để nguyên giờ Hà Nội.

Rồi chúng tôi nâng ly, vui Tết. Có ai ngờ đó là mùa xuân cuối cùng của cuộc chiến. Mới đấy mà đã 50 năm, nửa thế kỷ đã trôi qua!

-----------------
(*) Bánh làm từ bột gạo nếp, bột đậu xanh rang chín, trộn nhuyễn với đường cát sau đó ép bằng khuôn, đem hong trên bếp than rồi bọc lại bằng giấy ngũ sắc hoặc giấy nilon bóng.

Đặng Huy Giang

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/ky-niem-dem-giao-thua-cuoi-cung-cua-cuoc-chien-691784.html
Zalo