Kinh tế tư nhân: 'cú huých' phát triển kinh tế biển
Biển, đảo Việt Nam không chỉ là một phần lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc mà còn giữ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, quốc phòng và an ninh. Với vị thế án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không quốc tế huyết mạch, Biển Đông được coi là một trong những trục giao thương hàng hải trọng yếu của thế giới. Hệ thống cảng biển hiện đại cùng mạng lưới giao thông đa phương thức kết nối ven biển với nội địa đã tạo nên một hành lang kinh tế động lực, thúc đẩy giao thương và hội nhập quốc tế.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học “Kinh tế biển xanh tạo động lực phát triển bền vững” do Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, tổ chức năm 2024. (Ảnh BTC)
Bên cạnh tiềm năng kinh tế biển phong phú với nguồn tài nguyên dầu khí, hải sản và du lịch, vùng biển nước ta còn có ý nghĩa sống còn về mặt quốc phòng. Các đảo và quần đảo như những “tiền đồn chiến lược”, cùng với đất liền tạo thành thế trận phòng thủ liên hoàn, bảo vệ chủ quyền quốc gia từ hướng biển.
Động lực then chốt trong khai thác kinh tế biển
Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định vai trò là một trong những động lực quan trọng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đặc biệt, trong lĩnh vực kinh tế biển - một trong những trụ cột chiến lược của nền kinh tế đất nước, khu vực kinh tế tư nhân đang dần thể hiện sức bật mạnh mẽ, từng bước vươn lên trở thành lực lượng tiên phong trong khai thác hiệu quả tiềm năng và lợi thế biển đảo của Tổ quốc.
Từ một thành phần kinh tế “bổ sung”, khu vực này đã vươn lên, trở thành trụ cột quan trọng bên cạnh khu vực kinh tế nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế tư nhân hiện có khoảng hơn 940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.
Trong lĩnh vực kinh tế biển, kinh tế tư nhân thể hiện vai trò nổi bật qua những con số ấn tượng: Chiếm tới 65% sản lượng đánh bắt và 80% sản lượng nuôi trồng thủy sản; sở hữu 70% số cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch ven biển; tham gia 45% hoạt động logistics cảng biển và nhất là tiên phong trong các dự án năng lượng tái tạo, như điện gió ngoài khơi - một lĩnh vực đang mở ra không gian phát triển mới cho kinh tế biển Việt Nam…
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”. Lời căn dặn đó không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là lời hiệu triệu hành động cho các thế hệ sau này.
Trong Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9/2/2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, Đảng ta xác định rõ: “Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài… tham gia phát triển kinh tế biển”. Đây là định hướng có tính chất mở đường, tạo hành lang pháp lý và tư tưởng để kinh tế tư nhân mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực biển.
Tiếp tục khẳng định tư duy đổi mới và tầm nhìn chiến lược, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát triển mạnh kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Đồng thời, định hướng xây dựng Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển được đặc biệt nhấn mạnh, trong đó kinh tế biển và lực lượng doanh nghiệp tư nhân được xem là nhân tố không thể thiếu.
Gần đây nhất, ngày 4/5/2025, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và đáp ứng yêu cầu phát triển trong kỷ nguyên mới.
Việc đổi mới tư duy, thống nhất nhận thức và hành động cần có những giải pháp tổng thể, toàn diện, đột phá để phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của kinh tế tư nhân, củng cố niềm tin, tạo khí thế và xung lực mới cho phát triển kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là cần thiết và cấp bách. Trong đó, xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động,…
Dù vậy, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt nhiều rào cản kìm hãm sự phát triển, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Trong đó, lĩnh vực biển cũng đang đối mặt không ít thách thức cần sớm được tháo gỡ.
Một thực tế đáng chú ý là có tới 85% số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trong lĩnh vực biển có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, dẫn đến hạn chế về năng lực tài chính và khả năng đầu tư dài hạn. Tỷ lệ doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chỉ đạt khoảng 15%, cho thấy tốc độ đổi mới công nghệ còn chậm. Việc tiếp cận các nguồn vốn dài hạn vẫn là điểm nghẽn lớn, nhất là đối với các dự án hạ tầng biển quy mô lớn. Bên cạnh đó, thiếu hụt nhân lực kỹ thuật cao và sự chồng chéo trong hệ thống pháp lý liên quan đến khai thác tài nguyên biển đang ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cũng như khả năng cạnh tranh của khu vực này.
Thực tiễn đã cho thấy nhiều mô hình kinh tế tư nhân thành công trong đầu tư phát triển kinh tế biển. Những tên tuổi kinh tế tư nhân với chuỗi giá trị khép kín từ nuôi trồng đến xuất khẩu hay với các dự án đầu tư cảng biển và đóng tàu hiện đại là minh chứng rõ nét. Điểm chung của các doanh nghiệp này là có chiến lược phát triển dài hạn, đầu tư bài bản, ứng dụng công nghệ và chủ động hội nhập quốc tế. Chính những yếu tố này đã giúp họ không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần quan trọng vào phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam.
Định hướng và điều tiết phát triển
Trong tiến trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã xây dựng hệ thống pháp lý, chính sách và cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy kinh tế biển đi đúng hướng. Khung pháp lý ngày càng hoàn thiện với các văn bản như: Luật Biển Việt Nam (2012), Luật Thủy sản (2017, sửa đổi 2023), Luật Tài nguyên, Môi trường biển và hải đảo (2015), cùng Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây là nền tảng pháp lý định hướng toàn diện và hiện đại cho quản lý, khai thác, bảo vệ biển đảo.
Cơ chế quản lý biển cũng được thiết lập đa cấp, đa ngành. Trung ương cùng địa phương ven biển phối hợp thực hiện chức năng quản lý tổng hợp và chuyên ngành, từng bước nâng cao hiệu quả thực thi chính sách biển. Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế biển như: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu công nghệ cao, hỗ trợ lãi suất vay vốn, thành lập quỹ khoa học-công nghệ biển… tạo điều kiện thu hút đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm như thủy sản, năng lượng tái tạo, du lịch biển…
Đảng ta chủ trương: “Phát triển mạnh kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển. Đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, tạo thành các trung tâm kinh tế biển mạnh, tạo thế tiến ra biển, gắn với phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là các ngành có giá trị gia tăng cao như dịch vụ xuất, nhập khẩu, du lịch, dịch vụ nghề cá, dịch vụ dầu khí, vận tải… Phát triển kinh tế đảo phù hợp với vị trí, tiềm năng và lợi thế của từng đảo”.
Quan điểm, chủ trương của Đảng về phát huy lợi thế kết hợp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam không chỉ thể hiện sự phát triển năng lực tư duy lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, mà còn là ý chí, nguyện vọng của nhân dân Việt Nam trước bối cảnh quốc tế phức tạp như hiện nay.
Phát triển kinh tế biển bền vững
Kinh tế biển Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng đối mặt không ít thách thức mang tính hệ thống, đòi hỏi phải có cách tiếp cận tổng thể, chiến lược và bền vững hơn trong điều hành, đầu tư và quản lý.
Việc khai thác quá mức khiến nguồn lợi thủy sản ven bờ suy giảm 30-40% trong vòng 10 năm. Ô nhiễm môi trường biển diễn biến khá nghiêm trọng, trong đó 70% số rác thải nhựa có nguồn gốc từ đất liền. Biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng đe dọa nghiêm trọng đến khoảng 30% diện tích đất ven biển, nhất là tại các đồng bằng trũng thấp. Hệ thống thể chế quản lý biển còn phân tán và thiếu liên kết. Sự chồng chéo giữa các bộ, ngành khiến việc phân công trách nhiệm thiếu rõ ràng, hiệu quả điều phối bị suy giảm. Cơ sở dữ liệu biển chưa đồng bộ, thiếu chia sẻ thông tin, làm giảm hiệu quả trong hoạch định và thực thi chính sách biển.
Trước những vấn đề này, Việt Nam cần triển khai các giải pháp mang tính chiến lược. Một mặt, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế: Tập trung nghiên cứu rà soát, sửa đổi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; sớm ban hành Luật Kinh tế biển và thành lập Ủy ban Quốc gia về Kinh tế biển sẽ là bước đột phá về mặt pháp lý và điều phối; xây dựng, triển khai bộ tiêu chí chính sách phát triển quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Đồng thời, cần cải cách hành chính mạnh mẽ, cắt giảm ít nhất 30% số thủ tục cho doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực biển, và mở rộng các gói tín dụng ưu đãi quy mô lớn để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Mặt khác, khoa học-công nghệ phải trở thành trụ cột thúc đẩy kinh tế biển. Ứng dụng công nghệ 4.0 trong giám sát tàu cá, cảnh báo ô nhiễm, chuyển giao công nghệ nuôi biển tiên tiến từ các quốc gia như Na Uy, Israel là hướng đi cần được ưu tiên. Việc thành lập các trung tâm đào tạo nhân lực biển tại các thành phố cảng như Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu sẽ tạo nền tảng nhân lực vững chắc cho phát triển dài hạn.
Về môi trường, Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch Không gian biển quốc gia, dành ít nhất 30% diện tích biển cho mục tiêu bảo tồn hệ sinh thái. Mô hình kinh tế tuần hoàn cần được hiện thực hóa bằng việc xây dựng các khu công nghiệp sinh thái không phát thải, đồng thời triển khai chương trình thu gom rác thải nhựa đại dương với ngân sách riêng nhằm kiểm soát ô nhiễm biển.
Bên cạnh đó, cơ chế hợp tác đa phương đóng vai trò quan trọng. Việt Nam cần mở rộng các mô hình hợp tác công-tư trong đầu tư hạ tầng cảng biển, du lịch sinh thái; thúc đẩy liên kết vùng theo trục bắc-trung-nam để phát triển các chuỗi giá trị kinh tế biển đặc thù; đồng thời tích cực tham gia vào các sáng kiến khu vực như ASEAN về kinh tế biển xanh.
Với cách tiếp cận đồng bộ, đa chiều và dựa trên nền tảng thể chế chính trị vững chắc, Việt Nam hoàn toàn có thể biến những thách thức hiện nay thành động lực phát triển, từng bước đưa kinh tế biển trở thành trụ cột tăng trưởng bền vững, góp phần bảo đảm sinh kế, bảo vệ môi trường và giữ vững chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Kinh tế tư nhân giữ vai trò then chốt trong khai thác tiềm năng kinh tế biển, nhưng sự phát triển hiệu quả và bền vững của lĩnh vực này phụ thuộc vào định hướng chiến lược từ thể chế chính trị Việt Nam. Khi chính sách đồng bộ, doanh nghiệp chủ động đổi mới và môi trường biển được bảo vệ hiệu quả, kinh tế biển hoàn toàn có thể trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần khẳng định vị thế quốc gia trên bản đồ kinh tế và địa chính trị quốc tế.
Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta thật sự trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.