Hương văn Hà Nội
Hà Nội, từ bao giờ đến bây giờ, là nguồn cảm hứng bất tận của văn nghệ sĩ nói chung, của người cầm bút viết văn, làm thơ nói riêng.
Những tác phẩm đề tài thị dân của Lê Hữu Trác, Phạm Đình Hổ, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Chu Lai, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Trần Chiến, Nguyễn Ngọc Tiến..., đã và đang làm nên một dòng văn chương về Hà Nội trên bản đồ văn chương dân tộc.
Mỗi thành phố tự trầm tích cho mình một mùi riêng. Với Hà Nội, đó là mùi của cà phê, hay là mùi của những người như “ông” trong truyện ngắn “Cũng tại mùa đông” của Lê Minh Hà. Họ là những trí thức, nghệ sĩ thời vang bóng. Họ tự mình cách biệt với lao xao đô thị. Nhiều người rời thành phố này đi, xa có gần có, nhưng rồi lại loay hoay trở về. Sau trước họ thuộc về thành phố này, dự phần sinh động kiến tạo nên linh hồn của thành phố này. Trong gió đầu mùa se sắt hay trong hơi mưa phùn run rẩy, vừa nhâm nhi tách cà phê bốc khói vừa đọc thật chậm “Cũng tại mùa đông”, sẽ đầy lên trong khách văn tình yêu Hà Nội...
Truyện ngắn “Cà phê tháng Bảy” của Trần Nguyễn Anh đưa khách văn tái hồi tháng ngày xưa để lắng nghe câu chuyện được kể say sưa về một cuộc chia ly và ngày trở về không hẹn trước. Vào giữa tháng Bảy của những ngày thật khó khăn, một gia đình trí thức Hà thành quyết định đi kinh tế mới. Người đi nhưng hồn ở lại. Họ muốn mang theo cả Hà Nội. Trên chuyến tàu ra khỏi thành phố, chàng trai ôm tấm biển nhà bằng đồng, kỷ niệm cuối cùng của gia đình khi rời Thủ đô cùng một mối tình dang dở... Và rồi, dù muộn màng, chàng trai vẫn trở về vì “anh là của thành phố này”...
Cuối thế kỷ trước, khi “Cơ hội của Chúa” được công bố, tên tuổi Nguyễn Việt Hà ngay lập tức đóng đinh vào hàng ngũ không nhiều những nhà cách tân tiểu thuyết, và cũng ngay lập tức định danh một tác giả mà cái viết chuyên chú vào thị dân Hà Nội. Rồi từ đó đến nay, mỗi lần Nguyễn Việt Hà ra sách là một lần ấn tượng. Xưa nay người ta thường mặc định rằng, nhà văn thì phải xê dịch, để có thể thu vào tầm mắt, đặt lên lòng tay rộng dài thế giới, sâu thẳm nhân quần... Nhưng tác giả của “Con giai phố cổ”, “Thị dân tiểu thuyết”... có vẻ như chẳng cần đi đâu ra ngoài bán kính vài kilômét từ phố Nhà Chung của Hà Nội; chỉ cần nhẩn nha dốc cái vốn liếng Hà Nội, cái vốn liếng sách vở cổ kim đông tây cùng cái khiếu kể chuyện của mình lên trang sách là đủ để làm nên độc đáo đặc sắc văn hiệu Nguyễn Việt Hà...
Nhà văn Anh gốc Ấn Độ Salman Rushdie, tác giả tiểu thuyết trứ danh “Những đứa trẻ lúc nửa đêm”, cho rằng: “Nếu anh đến một vùng đất khác, thì phải biến nó thành của mình. Nhà văn cần sáng tạo ra mảnh đất dưới chân mình. Chừng nào bằng ngôn ngữ của anh, anh chưa làm nó trở nên sống động, thì anh chưa có đất đứng chân”. Phải vậy chăng, bên cạnh Nguyễn Việt Hà hay Đỗ Phấn - những nhà văn người Hà Nội chuyên tâm viết về Hà Nội, ngày càng xuất hiện nhiều hơn những cây bút đến từ mọi miền đất nước từng bước nỗ lực sáng tạo ra Hà Nội bằng ngôn từ theo cách của mình. Những tác phẩm của Chu Lai như tiểu thuyết “Phố”; của Nguyễn Bình Phương như tiểu thuyết “Ngồi”... đã làm nên những “đốm sáng thẩm mỹ” tác phẩm đề tài Hà Nội trong gia tài văn chương đa đề tài của mỗi tác giả.
Đến với tiểu thuyết “Cửa hiệu giặt là” của Đỗ Bích Thúy (một cây bút đã định danh mình ở đề tài miền núi), người đọc được dịp bất ngờ thú vị, về sự đa năng của tác giả, và về những vẻ đẹp khuất ẩn của Hà Nội. Từ một cửa hiệu giặt là tư nhân trên một ngõ phố nhỏ, Hà Nội của hôm nay cứ lần lượt hiển thị lên trang sách của Đỗ Bích Thúy bao nhiêu là câu chuyện, trong đó đặc biệt thuyết phục là câu chuyện về bà Minh. Bà là “một người Hà Nội” từ nếp ăn, nếp mặc đến nếp nghĩ, nếp sinh hoạt. Thế giới “Cửa hiệu giặt là” vừa hiện thực đến trần trụi vừa trữ tình đến sâu lắng. Một Hà Nội đang đảo lộn, náo loạn, bát nháo nhưng cũng bình yên, thảnh thơi đến lạ lùng khi những tiếng kinh vẳng trong những buổi sớm mùa đông, khi khói trà vẩn trong sương sớm và những hạt long não ngọt lừ nơi cuống họng bên những câu chuyện ân cần thủ thỉ sẻ chia tận đáy lòng... Và đặc biệt, khi ta gặp những người như bà Minh, những người mang chở, cất giữ ký ức Hà Nội...
Đến với tập tản văn và truyện ngắn “Hà Nội không vội được đâu” của Lữ Thị Mai (một người tự nhận mình chỉ là “đứa con ruộng đồng” đang “ở trọ phố phường”), có cảm giác như tác giả đã chạm được vào hồn cốt Hà Nội, không chỉ một Hà Nội hiện đại, trẻ trung, “phơi phới sắc thị thành”, mà còn là một Hà Nội xưa cũ, lắng sâu. Giữa tất bật, “vật vờ trong hỗn độn công việc” để mưu sinh, chị luôn biết mài sắc, căng mở giác quan để sống chậm, để cảm nhận tất cả chất thơ của Hà Nội, để nghe “những viên đá xếp lát dưới chân đang bồi hồi kể chuyện”...
Đến với tập thơ “Những câu thơ nhặt trên phố cũ” của Nguyễn Thanh Vân, nếu đi sâu vào bản đồ tâm hồn khá dày đường rậm nét của tác giả, sẽ bắt gặp điểm nhấn ấn tượng là những đường nét chạy về xưa cũ. Ở phố nay, người thơ này không chỉ thương nhớ quê xưa mà còn hoài vọng phố cũ. Hồn quê nồng hậu và hồn phố phong tình...
Trở lại với “Cửa hiệu giặt là”, cái tên của cuốn tiểu thuyết kích gợi một “đại tự sự”: Hà Nội giá như có được một cuộc tổng giặt giũ, là ủi, sấy phơi để trở về nguyên trạng phố cũ hồn xưa. Ngẫm kỹ, thấy điều này là không thể và không cần thiết. Sức quyến rũ nhiều khi toát ra từ cái đẹp dang dở, ngổn ngang bộn bề, không bao giờ hoàn kết.
Một dòng văn chương về/của Hà Nội cũng vậy, đang được các thế hệ nhà văn vừa nối vừa gối lên nhau kiến tạo. Họ cùng nhau kể những câu chuyện “lan man nghìn năm phố” (tên một tập tản văn của Đỗ Phấn). Riêng những nhà văn (tên tuổi) hữu duyên với Hà Nội rồi nhận Hà Nội làm quê hương, chẳng biết họ nhờ Hà Nội mà thành danh hay Hà Nội nhờ danh của họ mà thêm thơm.