Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực công nghiệp văn hóa: Nhiệm vụ và cơ hội

Hội nhập quốc tế trong công nghiệp văn hóa không chỉ là một cơ hội mà còn là nhiệm vụ quan trọng để khẳng định giá trị văn hóa dân tộc.

Năm 2016, Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt gồm 12 ngành. Cụ thể, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm: Điện ảnh; du lịch văn hóa; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; quảng cáo; kiến trúc; thiết kế; thời trang; thủ công mỹ nghệ; xuất bản; truyền hình và phát thanh; phần mềm và các trò chơi giải trí.

Đây là kết quả của quá trình đổi mới thể chế trong lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa, đồng thời đánh dấu những nỗ lực của các nhà hoạch định chính sách phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam theo hướng hiện đại, hội nhập, có đầu tư trọng tâm nhằm mang lại hiệu quả thực tế và có đóng góp cho xã hội.

Tuy nhiên, Việt Nam không thể tập trung vào phát triển cả 12 ngành công nghiệp văn hóa, mà ở từng thời điểm, đối với từng địa phương, sẽ phải ưu tiên một số ngành nhất định, tạo điểm nhấn, dẫn dắt sự phát triển của các ngành khác và cho cả nền kinh tế, văn hóa của đất nước.

Hai đêm diễn của Blackpink ở Hà Nội thu về hơn 333 tỷ đồng

Hai đêm diễn của Blackpink ở Hà Nội thu về hơn 333 tỷ đồng

Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, Việt Nam có thể tập trung vào các lĩnh vực sau:

Thứ nhất là âm nhạc. Từ những gì chúng ta thấy ở 2 đêm diễn của BlackPink tại Hà Nội đã đem lại doanh thu hơn 600 tỷ đồng, hay tầm ảnh hưởng của ban nhạc BTS, thậm chí chỉ 1 ca sĩ như Taylor Swift còn lớn hơn cả một ngành kinh tế, để thấy thị trường này lớn đến mức như thế nào! Việt Nam có rất nhiều nhạc sĩ, ca sĩ có tài năng. Chúng ta cũng có một kho tàng văn hóa và nghệ thuật âm nhạc truyền thống tuyệt vời để có thể khai thác, tạo ra chất liệu riêng cho âm nhạc Việt Nam, từ đó vươn ra thế giới. Một số ca khúc mang âm hưởng dân gian của Hoàng Thùy Linh hay Hà Myo và một số nhạc sĩ, ca sĩ khác đã là những tín hiệu ban đầu rất tích cực để chúng ta phát triển ngành công nghiệp âm nhạc.

Thứ hai là điện ảnh. Đây là một lĩnh vực có ảnh hưởng rất lớn đến công chúng và cũng có doanh thu rất cao. Những bộ phim của Việt Nam như Bố Già, Nhà Bà Nữ, Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, Lật Mặt, Nhà có khách... đều thuộc loại những phim có doanh thu lớn nhất. Điều đó cho thấy quy mô và tiềm năng thị trường điện ảnh Việt Nam, cũng như khả năng cạnh tranh của phim Việt với nước ngoài. Điện ảnh cũng có khả năng lan tỏa lớn, đặc biệt sang các lĩnh vực du lịch, quảng bá hình ảnh địa phương.

Thứ ba là du lịch văn hóa. Việt Nam là một quốc gia thu hút được nhiều du khách quốc tế bởi những giá trị văn hóa của mình. Nhiều bình chọn của các giải thưởng du lịch lớn trên thế giới đã chứng minh nhận định này. Phát triển du lịch văn hóa cũng là hướng đi của nhiều địa phương ở nước ta. Trong du lịch văn hóa, chúng ta có thể tập trung cho phát triển ẩm thực, làng nghề thủ công... Phát triển du lịch văn hóa giúp chúng ta giải được nhiều bài toán cho phát triển bền vững, đặc biệt ở các vùng miền núi, dân tộc thiểu số.

Thứ tư là lĩnh vực thời trang. Việt Nam là một trong các quốc gia hàng đầu về dệt may. Dù vậy, đích đến của chúng ta là công nghiệp thời trang để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hàng may mặc, và xây dựng thương hiệu cho thời trang Việt Nam là một lựa chọn lý tưởng nhất. Chúng ta cũng đã có một số sự kiện thời trang quốc tế tại Việt Nam, cũng như có một số nhà tạo mẫu có thương hiệu nhất định ở khu vực và quốc tế. Đây là những điều kiện tốt để phát triển công nghiệp thời trang.

Bên cạnh đó, phần mềm và các trò chơi giải trí cũng rất có tiềm năng ở Việt Nam khi chúng ta có nhiều tài năng sáng tạo, là một trong những trung tâm sản xuất và gia công phần mềm lớn của thế giới (năm 2022, theo Bộ Thông tin và Truyền thông, doanh thu lĩnh vực công nghiệp ICT lên đến 148 tỷ USD). Không khí khởi nghiệp sáng tạo đang rất được quan tâm, nhất là khi Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) vừa được khai trương. Ngoài ra, các ngành công nghiệp văn hóa khác cũng có rất nhiều tiềm năng.

Có chung quan điểm với PGS.TS Bùi Hoài Sơn, GS.TS Từ Thị Loan - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam cho rằng, mỗi địa phương có thế mạnh riêng và cần tập trung vào thế mạnh, lợi thế của mình.

Làng nghề gốm Bàu Trúc. Ảnh: Lê Việt Khánh

Làng nghề gốm Bàu Trúc. Ảnh: Lê Việt Khánh

“Theo như tôi theo dõi thì thủ công mỹ nghệ đang có hướng phát triển rất tốt. Qua nghiên cứu, tôi thấy rằng, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam hiện đang có ở 163 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đó là một con số ấn tượng, chiếm 10% thị phần thủ công mỹ nghệ thế giới. Ở châu Á, chúng ta chỉ đứng thứ hai, sau Trung Quốc. Hiện tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu trong lĩnh vực này tăng dần theo các năm, hiện là 9,5%/năm và dự đoán thời gian tới sẽ tăng lên 12%/năm”, Giáo sư Từ Thị Loan nói.

Qua các con số thống kê, có thể thấy, thủ công mỹ nghệ là 1 trong 10 lĩnh vực xuất khẩu chiếm kim ngạch cao nhất ở Việt Nam, hơn nữa còn là ngành kinh doanh “một vốn bốn lời”. Giá thành, nguyên liệu đầu tư ít nhưng lợi nhuận cao. Đặc biệt, ở Việt Nam có thuận lợi là các hệ thống làng nghề phong phú từ làm gốm đến mây tre đan, dệt vải…

Theo GS.TS Từ Thị Loan, vì những lý do trên, thủ công mỹ nghệ là một lĩnh vực mà công nghiệp văn hóa Việt nam có thể ưu tiên. Bà Loan dẫn chứng trường hợp của Hà Nội, thủ đô hiện coi thủ công mỹ nghệ là ngành dẫn dắt tiên phong, cánh chim đầu đàn tạo cảm hứng cho các lĩnh vực khác.

Để tăng cường khả năng hợp tác quốc tế trong công nghiệp văn hóa, đồng thời bảo vệ giá trị truyền thống và tránh nguy cơ “xâm lăng văn hóa”, Việt Nam cần một chiến lược toàn diện, kết hợp hài hòa giữa hội nhập và bảo tồn.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn cho rằng, trước tiên, cần tận dụng cơ hội từ việc tham gia sâu vào các diễn đàn văn hóa quốc tế như UNESCO hay WIPO. Những thành tựu như Hà Nội, Đà Lạt, và Hội An gia nhập Mạng lưới các thành phố sáng tạo của UNESCO không chỉ là minh chứng cho tiềm năng văn hóa của Việt Nam mà còn mở ra cơ hội để đưa các giá trị văn hóa Việt vào dòng chảy sáng tạo toàn cầu. Những thành phố này, với sự kết hợp giữa di sản lâu đời và sáng tạo hiện đại, cần trở thành hình mẫu để các địa phương khác học hỏi và phát triển.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tập trung phát triển các sản phẩm văn hóa mang "thương hiệu Việt Nam" để tạo sức hút trên thị trường quốc tế. Các lĩnh vực như điện ảnh, âm nhạc, thời trang, và thủ công mỹ nghệ có tiềm năng lớn. Những bộ phim tham dự các liên hoan phim quốc tế hay các thiết kế lụa, gốm sứ được trình diễn ở nước ngoài là những ví dụ sống động cho khả năng kết nối văn hóa của Việt Nam.

 Di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam - Di sản phi vật thể đại diện nhân loại. Ảnh: Lê Việt Khánh

Di sản Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam - Di sản phi vật thể đại diện nhân loại. Ảnh: Lê Việt Khánh

Để thúc đẩy điều này, chính phủ cần tăng cường hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, và bản quyền cho các nhà sáng tạo, đồng thời xây dựng cơ chế hợp tác đôi bên cùng có lợi trong hợp tác quốc tế. Việt Nam không chỉ tiếp nhận những ảnh hưởng tích cực từ văn hóa nước ngoài mà còn phải xuất khẩu các giá trị đặc sắc của mình thông qua các dự án hợp tác sản xuất phim, triển lãm nghệ thuật, và giao lưu âm nhạc.

Bên cạnh đó, việc xây dựng một hệ sinh thái sáng tạo trong nước là điều kiện tiên quyết để bảo tồn và phát triển văn hóa. Những không gian sáng tạo hiện đại tại các đô thị lớn cần được kết nối với các làng nghề truyền thống và di sản phi vật thể, tạo nên sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới. Các mô hình như du lịch trải nghiệm tại làng gốm Bát Tràng hay làng tranh Đông Hồ không chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn giúp lan tỏa những giá trị văn hóa sâu sắc của Việt Nam ra thế giới.

Song song với phát triển, việc bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống cần được chú trọng thông qua các chính sách cụ thể và hoạt động giáo dục cộng đồng. Chính phủ cần ban hành các quy định bảo vệ bản quyền văn hóa và di sản quốc gia, đồng thời sử dụng công nghệ để số hóa các di sản quý giá như nhã nhạc cung đình Huế hay ca trù.

 Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Ảnh: Lê Việt Khánh

Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Ảnh: Lê Việt Khánh

Việc giáo dục giới trẻ về giá trị văn hóa dân tộc cần được thực hiện không chỉ trong trường học mà còn qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Đây chính là cách để xây dựng bản lĩnh văn hóa mạnh mẽ, giúp cộng đồng nhận diện và tự hào về những giá trị đặc sắc của mình.

Học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia thành công như Hàn Quốc và Nhật Bản cũng là một hướng đi cần thiết. Hàn Quốc đã đưa K-pop, điện ảnh, và ẩm thực ra thế giới nhưng vẫn giữ gìn được những giá trị cốt lõi. Tương tự, Nhật Bản cân bằng hài hòa giữa nghệ thuật truyền thống như trà đạo, kimono với ngành công nghiệp sáng tạo hiện đại như anime và manga. Những bài học này cho thấy, nếu được đầu tư bài bản, Việt Nam có thể vừa phát triển mạnh mẽ công nghiệp văn hóa vừa bảo vệ bản sắc dân tộc.

Đặc biệt, cộng đồng người Việt ở nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc quảng bá văn hóa Việt Nam. Các lễ hội, triển lãm, hay tuần lễ văn hóa Việt Nam tại các quốc gia như Mỹ, Pháp, hay Australia có thể góp phần xây dựng hình ảnh Việt Nam hiện đại nhưng vẫn đậm đà bản sắc. Kết hợp với sự hỗ trợ của các cơ quan đại diện ngoại giao và cộng đồng doanh nghiệp, Việt Nam hoàn toàn có thể khẳng định chỗ đứng của mình trong bản đồ văn hóa thế giới.

Hội nhập quốc tế trong công nghiệp văn hóa không chỉ là một cơ hội mà còn là nhiệm vụ quan trọng để khẳng định giá trị văn hóa dân tộc. Bằng cách phát triển các sản phẩm văn hóa chất lượng cao, xây dựng hệ sinh thái sáng tạo gắn với bảo tồn, và tăng cường bản lĩnh văn hóa dân tộc, Việt Nam có thể tránh được nguy cơ "xâm lăng văn hóa" và tạo dựng vị thế vững chắc trong nền văn hóa toàn cầu.

Nguồn VOV: https://vov.vn/van-hoa/hoi-nhap-quoc-te-trong-linh-vuc-cong-nghiep-van-hoa-nhiem-vu-va-co-hoi-post1146112.vov
Zalo