Hoàn thiện khung pháp lý quy hoạch - tạo không gian phát triển bền vững
Sửa đổi Luật Quy hoạch và điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia không chỉ là công việc kỹ thuật của ngành quy hoạch mà là quyết định chiến lược mang tầm quốc gia.
Một hệ thống quy hoạch tinh gọn, minh bạch, có phân quyền hợp lý và liên kết vùng mạnh mẽ sẽ định hình cấu trúc phát triển Việt Nam trong 25 năm tới. Đây là bước đi then chốt để giải phóng nguồn lực, tạo môi trường đầu tư lành mạnh và hướng tới phát triển bền vững.
Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, sáng 28/11/2025 diễn ra phiên thảo luận trọng tâm về Luật Quy hoạch (sửa đổi) và việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia 2021‑2030, tầm nhìn đến 2050. Buổi chiều cùng ngày, Quốc hội tiếp tục bàn về dự án sửa đổi Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn. Đây được xem là bước đột phá quan trọng, nhằm xây dựng khung pháp lý đồng bộ, hiện đại cho công tác quy hoạch; đồng thời điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới sau sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.
Hoàn thiện khung pháp lý quy hoạch
Qua gần tám năm kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực, thực tiễn triển khai đã cho thấy nhiều bất cập. Tình trạng chồng chéo giữa các loại quy hoạch, thiếu liên thông giữa quy hoạch vùng – tỉnh – chuyên ngành, hay quy trình lập – thẩm định – phê duyệt kéo dài đã làm chậm tiến độ triển khai hàng loạt dự án quan trọng về hạ tầng, đô thị, giao thông, công nghiệp. Nhiều đại biểu thẳng thắn chỉ ra: không ít địa phương rơi vào tình thế “ngồi chờ quy hoạch cấp trên”, dẫn đến lãng phí cơ hội đầu tư và bỏ trống nguồn lực đất đai.
Chính vì vậy, trọng tâm của lần sửa đổi này là tinh gọn và làm rõ hệ thống quy hoạch. Việc thu hẹp hơn 40% số lượng quy hoạch không chỉ giảm gánh nặng thủ tục mà còn tạo tính đồng bộ và tránh tình trạng một lĩnh vực bị điều chỉnh bởi nhiều quy hoạch khác nhau. Quy trình lập – thẩm định được cơ cấu lại trên nguyên tắc: một đầu mối chủ trì, một đầu mối chịu trách nhiệm, hạn chế tình trạng mỗi cơ quan “nắm một phần thông tin”, gây tắc nghẽn trong thực thi.
Bên cạnh đó, chính sách phân cấp mạnh cho địa phương được nhiều đại biểu đặc biệt ủng hộ. Việt Nam đã hoàn tất sắp xếp đơn vị hành chính và đang vận hành mô hình chính quyền đô thị tại nhiều thành phố lớn. Vì vậy, nếu địa phương không được chủ động lập quy hoạch và quyết định mô hình phát triển không gian của mình, hệ thống quy hoạch sẽ khó phản ánh kịp thời thực tiễn. Phân cấp đi kèm với yêu cầu nâng cao năng lực chuyên môn, hiện đại hóa công cụ quy hoạch, ứng dụng dữ liệu số và tăng cường minh bạch để bảo đảm chất lượng.
Một điểm được nhấn mạnh trong các dự thảo là yêu cầu số hóa toàn bộ quy hoạch, kết nối dữ liệu quốc gia, đồng thời công khai để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận. Nhiều vụ việc liên quan đến “quy hoạch treo”, thông tin quy hoạch thiếu minh bạch dẫn đến khiếu kiện kéo dài cho thấy nhu cầu cấp thiết của việc công khai thông tin, hạn chế lợi ích nhóm hoặc thao túng đất đai.
Ngoài ra, việc sửa đổi luật lần này cũng hướng tới nâng cao tính trách nhiệm của cơ quan thẩm định. Nhiều đại biểu lưu ý, nếu không tách bạch rõ giữa cơ quan lập và cơ quan thẩm định sẽ dẫn đến xung đột lợi ích. Do đó, sửa luật nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, tăng trách nhiệm giải trình, qua đó nâng cao chất lượng quy hoạch, tránh tình trạng lập xong lại phải điều chỉnh ngay khi triển khai.
Tái thiết kế không gian phát triển đến năm 2050
Việc điều chỉnh Quy hoạch tổng thể quốc gia giai đoạn 2021–2030, tầm nhìn 2050 được coi là nhiệm vụ trọng tâm của phiên thảo luận. Trong bối cảnh nước ta đã thay đổi về địa giới sau sắp xếp đơn vị hành chính, nhiều vùng kinh tế – xã hội đã khác biệt đáng kể về quy mô dân số, hạ tầng giao thông, chức năng đô thị và nhu cầu liên kết phát triển. Thực tiễn này đòi hỏi phải điều chỉnh quy hoạch tổng thể để tạo sự thống nhất và kết nối với các quy hoạch cấp tỉnh, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành.
Dự thảo điều chỉnh lần này nhấn mạnh tư duy phát triển dựa trên vùng và liên vùng, thay vì phát triển theo từng địa phương riêng lẻ. Nhiều đại biểu đồng tình rằng phát triển vùng sẽ tạo ra dư địa lớn hơn cho tăng trưởng, bởi các vấn đề hạ tầng, logistics, môi trường hay ứng phó biến đổi khí hậu… đều có tính liên vùng và không thể giải quyết trong phạm vi một tỉnh.
Dự thảo đưa ra định hướng tái phân bố không gian phát triển trên ba trụ cột chính:
Thứ nhất, tái cấu trúc vùng kinh tế – xã hội. Việc điều chỉnh nhằm xác định rõ vai trò của từng vùng: vùng động lực, vùng đệm, vùng đặc thù. Mục tiêu là mỗi vùng có chiến lược phát triển riêng, không dẫm chân hoặc chồng chéo chức năng. Các hành lang kinh tế ven biển, trục Bắc – Nam, trục Đông – Tây, các cực tăng trưởng mới sẽ được quy hoạch lại theo hướng tối ưu hóa mạng lưới giao thông và khả năng kết nối.
Thứ hai, ưu tiên hạ tầng chiến lược. Hệ thống đường cao tốc, cảng biển, sân bay, đường sắt tốc độ cao, hạ tầng số, năng lượng tái tạo và các dự án liên vùng được đặt vào nhóm ưu tiên. Điều này phù hợp với bối cảnh tổng nhu cầu đầu tư hạ tầng của Việt Nam tới năm 2030 rất lớn, đòi hỏi quy hoạch phải đóng vai trò định hướng, tránh đầu tư manh mún.
Thứ ba, thích ứng biến đổi khí hậu và bảo đảm an ninh nguồn lực. Đặc biệt quan trọng với đồng bằng sông Cửu Long - vùng chịu tác động mạnh nhất từ xâm nhập mặn, sụt lún và nước biển dâng. Việc điều chỉnh quy hoạch quốc gia sẽ giúp phân bổ không gian sản xuất, hệ thống thủy lợi và chiến lược phát triển đô thị phù hợp trong dài hạn.
Đối với Hà Nội, điều chỉnh quy hoạch tổng thể quốc gia có ý nghĩa sâu sắc. Thủ đô đang bước vào giai đoạn mở rộng không gian phát triển sau sắp xếp đơn vị hành chính, yêu cầu liên kết mạnh mẽ hơn với các tỉnh vùng Thủ đô. Hệ thống trục giao thông vành đai, trục hướng tâm, các đô thị vệ tinh, không gian xanh, và định hướng phát triển công nghiệp – dịch vụ sẽ phụ thuộc trực tiếp vào định hướng quốc gia.
Một hệ thống quy hoạch tổng thể đồng bộ sẽ giúp Hà Nội giải quyết những bất cập kéo dài như quá tải hạ tầng, thiếu liên kết với tỉnh lân cận, quy hoạch treo và quản lý đất đai chưa hiệu quả.
Tại các phiên thảo luận trước đó, bên cạnh đồng thuận về sự cần thiết điều chỉnh, nhiều đại biểu nhấn mạnh, quy hoạch chỉ có giá trị khi được thực thi hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải giám sát chặt chẽ quá trình lập – phê duyệt – thực hiện quy hoạch, nhất là trong bối cảnh phân quyền mạnh hơn cho địa phương.

































