Công nghệ nâng sức cạnh tranh cho công nghiệp hỗ trợ

Theo thống kê của Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) hiện nước ta có khoảng 1.700 doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT), chiếm khoảng 40% tổng số doanh nghiệp toàn ngành. Tuy nhiên, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp - IDC (Bộ Công Thương) cho biết, dù số lượng doanh nghiệp trong ngành tăng nhanh, nhưng phần lớn vẫn chỉ tham gia ở những công đoạn giản đơn, giá trị thấp. Chỉ khoảng 300 doanh nghiệp đủ năng lực tham gia chuỗi cung ứng của các tập đoàn lớn như Samsung, Toyota, Honda; tỷ lệ nội địa hóa trong nhiều ngành mới đạt 30 - 40% và chưa đáp ứng kỳ vọng của Chính phủ.

Số lượng và chất lượng chưa cùng hướng

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này được cho là bởi những rào cản về công nghệ, vốn và nguồn nhân lực. Nếu ngành CNHT tiếp tục sử dụng công nghệ cũ sẽ không thể đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa. Cùng với đó, hầu hết các doanh nghiệp lại yếu về năng lực tài chính.

Vấn đề nhân lực cũng đang tồn tại không ít bất cập. Số lao động có tay nghề cao chưa đáp ứng nhu cầu. Phần lớn doanh nghiệp trong nước chưa liên kết với các trường đại học, cao đẳng để phát triển nguồn nhân lực dẫn đến thiếu hụt và không chủ động được nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa chương trình đào tạo với xu hướng phát triển khoa học, công nghệ trên thế giới; các chương trình đào tạo thiên nhiều về lý thuyết, thiếu thực hành.

Thảo luận về kinh tế - xã hội tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV vừa qua, đại biểu Nguyễn Duy Minh (thành phố Đà Nẵng) cho biết, phát triển CNHT là mắt xích chiến lược trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quyết định năng lực tự chủ sản xuất và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, nếu doanh nghiệp trong nước vẫn phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu, nhiều sản phẩm sẽ không đủ điều kiện xuất xứ Việt Nam, dẫn tới mất ưu đãi thuế và có nguy cơ bị áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại.

Xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà: doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước, FDI để tạo đà cho công nghiệp hỗ trợ phát triển

Xây dựng hệ sinh thái liên kết ba nhà: doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước, FDI để tạo đà cho công nghiệp hỗ trợ phát triển

Công nghệ là lối thoát duy nhất

Để giải quyết vấn đề này, ở góc độ doanh nghiệp, Giám đốc phát triển thị trường quốc tế Công ty Smart Việt Nam Cao Văn Hùng cho rằng, gia tăng hàm lượng công nghệ là “lối thoát duy nhất” để doanh nghiệp Việt vượt khỏi vòng luẩn quẩn gia công giá rẻ. Muốn đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng quốc tế, doanh nghiệp phải đầu tư chiều sâu vào máy móc hiện đại, chuẩn hóa toàn bộ quy trình sản xuất và xây dựng văn hóa chất lượng trong từng nhân sự.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 17/7/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 111/2015/NĐ-CP, trong đó thay thế và cập nhật nhiều nội dung mới. Cụ thể, Nghị định xác định mục tiêu đến năm 2035 tỷ lệ nội địa hóa phải đạt từ 50 - 60%. Có ít nhất 3.000 doanh nghiệp CNHT đủ năng lực cung ứng cho doanh nghiệp FDI và công nghiệp hỗ trợ phải đóng góp 10% giá trị sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, Nghị định đã mở rộng phạm vi phát triển sang hệ sinh thái sản xuất, chế biến, chế tạo, coi CNHT là trụ cột của nền công nghiệp tự chủ và sáng tạo.

Bên cạnh đó, để tạo điều kiện tốt nhất cho nền kinh tế nói chung và ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng, Quốc hội đang thảo luận về 2 dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ; Luật Công nghệ cao (sửa đổi), tiếp đến là dự án Luật Trí tuệ nhân tạo… nhằm tạo hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển công nghệ cao. Trong đó, có xác định phạm vi công nghệ điều chỉnh trong Luật để bao quát công nghệ mới theo xu thế trên thế giới và yêu cầu thực tiễn; hỗ trợ, thúc đẩy chuyển giao công nghệ nội sinh, bao gồm chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp/tổ chức, cá nhân trong nước, thương mại hóa kết quả và phát triển...

Để thúc đẩy CNHT phát triển nhanh, bền vững, một đại biểu Quốc hội cho rằng phải sớm xây dựng Luật Phát triển CNHT để hình thành khung pháp lý thống nhất, ổn định, đảm bảo tự chủ sản xuất, hội nhập bền vững và phát triển của doanh nghiệp trong nước trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, cần triển khai thực chất Quỹ phát triển CNHT quốc gia ngay trong năm 2026, bảo đảm vốn vay ưu đãi đến được các doanh nghiệp. Hiện thực hóa cơ chế một cửa hỗ trợ CNHT; rút ngắn các trình tự, thủ tục, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nhanh và hiệu quả. Ưu tiên hỗ trợ học phí đào tạo tại chỗ, hỗ trợ học bổng thực hành tại doanh nghiệp, đồng thời liên kết quốc tế trong chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. Thực hiện thu hút đầu tư FDI có chọn lọc gắn với các cam kết nội địa hóa và chuyển giao công nghệ.

Dưới góc nhìn doanh nghiệp, ông Nguyễn Vân, Phó Chủ tịch Thường trực Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Thành phố Hà Nội (HANSIBA), Phó Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn N&G (N&G Holdings) cho rằng, cần cho phép các doanh nghiệp tư nhân thuộc ngành CNHT và CNHT cho công nghệ cao được tiếp cận vay vốn ODA để đầu tư mua thiết bị, máy móc, công nghệ của nước ngoài (đặc biệt là từ các nước công nghiệp phát triển) để có khả năng sản xuất, liên kết tham gia chuỗi sản xuất toàn cầu.

Bên cạnh đó, việc kết nối các doanh nghiệp tập đoàn lớn quốc tế đang có mặt tại Việt Nam là hết sức quan trọng. Cần có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp FDI chú trọng việc đặt hàng, hỗ trợ thực chất, đôi bên cùng có lợi để tăng cường nội địa hóa sản phẩm “made in”, “made by” Việt Nam. Từ đó các doanh nghiệp Việt Nam trực tiếp tham gia chuỗi sản xuất CNHT.

Để làm được điều này, đại biểu Lã Thanh Tân (Thành phố Hải Phòng) cũng cho rằng, cần có cơ chế để xây dựng hệ sinh thái liên kết 3 nhà: doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước, FDI để doanh nghiệp không bơi một mình mà bơi theo đàn, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu, tăng nội địa hóa, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, tăng sức cạnh tranh và khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Ái Nhiên

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/cong-nghe-nang-suc-canh-tranh-cho-cong-nghiep-ho-tro-174110.html