Di sản kiến trúc thời bao cấp: Ký ức của một thời đô thị
Hà Nội đang sở hữu nhiều di sản kiến trúc thời bao cấp được xây dựng trong giai đoạn 1954-1986, nó là một phần ký ức của đô thị và bản sắc của thành phố. Nhưng thực tế, nhiều công trình đã xuống cấp, một số bị phá hủy, một số khác bị cải tạo sai lệch, đánh mất các giá trị cốt lõi của di sản.
Di sản kiến trúc này cần được bảo tồn và phát huy giá trị như thế nào? Liệu chúng có khả năng đóng góp cho định hướng phát triển công nghiệp văn hóa của Hà Nội hay không?
Kiến trúc thời bao cấp là một di sản
Trong giai đoạn 1954-1986, hay còn gọi là thời bao cấp, Hà Nội đã xây dựng rất nhiều công trình như các khu tập thể Kim Liên, Trung Tự, Thành Công..., các nhà máy dệt, cơ khí, thuốc lá, xà phòng, cao su, bê tông, diêm, gỗ... và đặc biệt là các công trình công cộng như Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Bách khoa, Đại học Thủy lợi, Sân vận động Hàng Đẫy, Cung Văn hóa thiếu nhi Hà Nội, Bưu điện Hà Nội, Cung Văn hóa Lao động... Đó là si sản kiến trúc thời bao cấp, chứa đựng những giá trị văn hóa, lịch sử, ký ức của đất nước.
Theo các nhà nghiên cứu, những công trình kiến trúc và những không gian được hình thành dưới thời bao cấp không thuần túy là nơi để sống, để học tập và làm việc, đó còn là một phần ký ức lịch sử và bản sắc của thành phố. Nhưng liệu thành phố có mất mát đi một phần ký ức và bản sắc không, nếu để các công trình như vậy xuống cấp, mai một và chìm vào quên lãng? Liệu các di sản đó có xứng đáng được bảo tồn?
Kiến trúc sư Vũ Hiệp khẳng định: “Tôi phải khẳng định là Hà Nội rất tự tin về giá trị của kiến trúc Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) cả về mặt thẩm mỹ lẫn về mặt lịch sử”. Theo ông, về thẩm mỹ, các công trình đều được tạo hình theo nguyên lý kiến trúc hiện đại, hạn chế chi tiết trang trí như kiến trúc thời Pháp, qua đó củng cố thêm bản sắc kiến trúc Việt Nam. Nhưng vì sao kiến trúc XHCN vẫn khiến người ta nghi ngờ về giá trị? “Tôi cũng khảo sát rồi trao đổi với chuyên gia và được lý giải: thứ nhất, giai đoạn đó đất nước khó khăn nên kiến trúc thiếu tính hoành tráng; thứ hai, ký ức về thời kỳ đó khá phức tạp, dù hào hùng chiến thắng, phơi phới xây dựng XHCN nhưng cũng đầy khó khăn, đói kém nên nhiều người thực sự muốn quên đi”, KTS Vũ Hiệp lý giải.
Còn theo PGS, TS Nguyễn Thanh Bình, việc nhận diện một khối di sản kiến trúc trong bối cảnh lịch sử và bối cảnh tâm lý phức tạp có bao giờ dễ dàng? Tuy nhiên, nếu lãng quên di sản ấy, chúng ta sẽ mất mát cả những điều mình vẫn còn chưa biết rõ. “Các kiến trúc sư thời kỳ đầu của chúng ta đều là những người được đào tạo ở Trường Mỹ thuật Đông Dương và đi theo cách mạng. Khi từ chiến khu trở về, mặc dù có ảnh hưởng của Pháp nhưng các cụ rất có ý thức xây dựng nền kiến trúc mới của nước Việt Nam độc lập”, PGS. TS Trần Thanh Bình nói. Tình yêu nước và ý thức về một nền kiến trúc mới cũng khiến cho các kiến trúc sư thế hệ sau, dù nhiều người đã học tập ở Liên Xô và Đông Âu nhưng vẫn cố gắng học hỏi.
Để di sản kiến trúc bao cấp sống trong đời sống hôm nay
Nhiều thập niên đã trôi qua, đã có nhiều công trình của khối di sản kiến trúc thời bao cấp xuống cấp nghiêm trọng, thay đổi công năng hoặc vĩnh viễn bị phá hủy và thay thế. Vậy chúng ta nên ứng xử với khối di sản còn lại như thế nào? “Vấn đề hôm nay đưa ra quan trọng ở chỗ chúng ta coi tất cả các công trình đó không thể bỏ qua, và phải nhận được những ưu tiên nào đó”, KTS Lê Thành Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Bảo tồn di tích (Bộ Xây dựng) nhận xét. “Nhưng bảo tồn đến đâu thì chúng ta phải nhìn lại tổng hòa của một quá trình dài và nhớ rằng đất nước vẫn còn những công trình cần bảo tồn khác nữa, như các kiến trúc truyền thống, thời Pháp thuộc”.
Là một chuyên gia từng thực hiện nhiều dự án về bảo tồn, ông chia sẻ: “Trước hết có một vấn đề rất lớn, đó là mâu thuẫn giữa sự thống nhất bảo tồn và phát triển. Luôn luôn là giằng xé, luôn luôn là một cuộc tranh luận bất tận. Nhưng xã hội lúc nào cũng phải như thế, trong sự phát triển vẫn phải giữ lại cái gì đó, thay thế cái gì đó và làm mới cái gì đó”.
Kiến trúc trong thành phố không thuần túy là những thực thể công trình mà còn là nơi nuôi nấng, lưu giữ các mối quan hệ xã hội và cả ước mơ của những người sống ở đó. Một phần lịch sử được gói ghém trong những công trình đó. Thế mà giờ đây, những công trình kiến trúc, chứng nhân lịch sử một thời đang phải đối mặt với thách thức muôn hình vạn trạng, trong đó có cả sự lãng quên. Vì vậy, KTS Lê Thành Vinh cho rằng việc ứng xử như thế nào với di sản này sẽ là một chính sách quản lý song hành với nghiên cứu và thảo luận của xã hội.
Cùng đồng quan điểm về vấn đề này, PGS, TS Nguyễn Văn Huy cho rằng: “Thời bao cấp là một thời kỳ hào hùng và bi tráng. Nếu chúng ta muốn phá bỏ thì dễ mà giữ rất khó và rất cần giữ. Hà Nội là một thành phố hiếm hoi có dày đặc di sản thời bao cấp, nó quan trọng với Hà Nội khi chuyển từ thành phố tiêu thụ thành thành phố sản xuất, thể hiện tinh thần tự chủ. Thời gian qua đã có những hoạt động văn hóa diễn ra tại các di sản như Nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhiều loại hình nghệ thuật được trình diễn ở đó, đây là một tín hiệu tốt để chúng ta suy nghĩ về cách thức bảo tồn các di sản công nghiệp”.
TS, Kiến trúc sư Trần Thanh Bình cho rằng, đây là câu chuyện thời sự, sự chuyển đổi của cơ cấu công nghiệp của một thành phố, đằng sau đó là cuộc chiến đấu cân nhắc giữa cái được và mất. Đáng tiếc, nếu mất đi những di sản kiến trúc thời bao cấp, chúng ta sẽ mất ký ức của một đô thị có nhiều vỉa tầng văn hóa đặc biệt như Hà Nội.