Cuộc sống đói khổ trong trại tập trung của những thiếu niên Do Thái
Phần lớn các cậu con trai đang nghe chuyện chỉ có một mình, cha của họ đều đã bị giết chết, và rất nhiều trong số đó đã trở nên ngày một lãnh đạm.
“Chúng tôi chuyển sang một khu mới vào một ngày trời đẹp, ấm áp. Lá trên cây vẫn chưa đổi màu, và cỏ vẫn còn xanh, giống như thể nó đang ở độ mơn mởn nhất của lần hồi sinh thứ hai, tươi mới hơn trong những ngày đầu tiên của mùa thu.”
Giọng của Stefan tràn ngập trong căn phòng, thứ âm thanh còn lại là tiếng sột soạt mỗi khi anh lật một trang của cuốn sách đang đọc.
Fritz và những cậu con trai khác lắng nghe, mê mẩn vào câu chuyện về một nơi nghe rất giống nhưng lại không hề giống nơi mà họ đang sống. Được Stefan đọc sách cho nghe là một trong vài thú vui ít ỏi. Hy vọng vẫn đang le lói trong tâm trí Fritz, mặc dù cậu thấy bận lòng khi đơn đăng ký không bao gồm cha mình.
Cuộc sống của hai cha con họ đang chệch đi theo hai hướng khác nhau. Fritz đang dần khám phá ra một thế giới rộng lớn hơn thông qua các tù nhân lớn tuổi hơn, những người giúp đỡ và kết bạn với cậu.
Người có ảnh hưởng lớn nhất trong số này là Leopold Moses, người đã giúp đỡ Fritz sống sót trong những tháng đầu tiên và vẫn tiếp tục duy trì tình bạn với cậu. Lần đầu tiên, Fritz gặp mặt anh ta là ở trong mỏ đá, trong đợt bùng dịch kiết lỵ. Leo đã đưa cho Fritz một vài viên thuốc nhỏ màu đen: “Nuốt đi” anh nói, “phòng ngừa đen đủi”.
Fritz đưa cho cha mình xem những viên thuốc, ông nhận ra chúng nhờ thời gian phục vụ trong các chiến hào; chúng là than hoạt tính dùng cho thú y, và quả thực chúng có tác dụng. Leo Moses đã che chở cho Fritz khi cậu chuyển sang Phòng Thiếu niên, và Fritz biết được câu chuyện của anh.
Anh đã ở trong các trại tập trung ngay từ những ngày đầu tiên. Là một người lao động chân tay ở Dresden, Leo là một thành viên của Đảng Cộng sản Đức, và bị bắt ngay khi Đức Quốc xã nắm quyền - rất lâu trước khi việc mang tôn giáo Do Thái trở thành cái cớ để bị bắt bớ. Anh đã có một thời gian ngắn làm kapo ở đội kéo xe - một trong những kapo người Do Thái đầu tiên ở Buchenwald - nhưng anh không có tố chất để trở thành một người cai nô; chẳng bao lâu SS đã giáng chức anh, sa thải cùng hai mươi lăm roi trên Bock.
Thông qua Leo, Fritz đã được kết bạn với một vài tù nhân Do Thái kỳ cựu khác. Đây là chìa khóa để sống sót: “Không phải dựa vào may mắn; cũng chẳng phải nhờ Chúa phù hộ,” sau này cậu nhớ lại. Thay vào đó, là nhờ vào lòng tốt của những người khác. “Tất cả những gì mà họ thấy là ngôi sao Do Thái trên bộ đồng phục tù nhân của tôi, và rằng tôi vẫn còn là một đứa trẻ.”
Cậu và những đứa con trai khác thường được cho thêm một mẩu đồ ăn ngon, đôi khi là thuốc men khi cần dùng tới. Trong số những người lớn tuổi có Gustav Herzog, là người đã giao cho cha Fritz việc dọn dẹp phòng. Ba mươi hai tuổi, Gustl khá trẻ để làm một trưởng phòng.
Là con trai của một gia đình giàu có ở Vienna, chủ sở hữu của một hãng thông tấn quốc tế, anh bị đưa tới Buchenwald sau sự kiện Đêm Kính vỡ. Người mà Fritz dành sự tôn trọng nhiều nhất là người làm phó cho Gustl, Stefan Heymann. Stefan có gương mặt của một trí thức: vầng trán cao, đeo kính, cùng với khuôn hàm hẹp và một cái miệng rất nhanh nhạy. Anh từng là một sĩ quan trong quân đội Đức ở cuộc chiến trước, nhưng là một người cộng sản năng nổ và là một người Do Thái, anh nằm trong số những người đầu tiên bị bắt vào năm 1933, và có nhiều năm ở Dachau.
Vào những buổi tối không phải làm việc đêm, Stefan sẽ kể chuyện cho họ nghe để họ tạm quên đi tình cảnh khốn khổ trước mắt. Tối hôm nay, anh đang đọc cho họ nghe từ một cuốn sách quý giá, bị cấm: Con đường sống của tác giả người Nga Anton Makarenko.
Cuốn sách kể câu chuyện về công việc của Makarenko tại các khu trại cải tạo dành cho tội phạm vị thành niên của Liên Xô. Khi Stefan đọc, giọng của anh thì thào trong bóng tối của khu trại giam, khu trại của những chàng trai trẻ bừng lên sống động như trong những khúc ca huyền diệu, một vũ trụ khác hẳn thực tế cuộc sống mỗi ngày ở Buchenwald:
“Những tán lá rì rào của những ngọn cây xum xuê trong vườn cây của chúng tôi trải rộng khắp vùng Kolomak. Nơi đây có rất nhiều góc râm thần bí, ở trong đó người ta có thể tắm táp, nuôi dưỡng một bầy yêu tinh, đi câu, hoặc, ở mức độ thấp nhất, tâm sự với một tâm hồn tương thông với mình. Các tòa nhà chính của chúng tôi trải khắp bên trên một bờ sông dốc, và những cậu nhóc ít tuổi hơn, tinh quái và chưa biết xấu hổ có thể nhảy thẳng từ cửa sổ xuống sông, bỏ lại chỗ quần áo mỏng manh trên bệ cửa sổ.”
Phần lớn các cậu con trai đang nghe chuyện chỉ có một mình, cha của họ đều đã bị giết chết, và rất nhiều trong số đó đã trở nên ngày một lãnh đạm, thiếu sức sống; nhưng việc lắng nghe câu chuyện kể về một thế giới khác tốt đẹp hơn đã đưa họ phấn chấn trở lại, tán dương, reo hò.