Cách người Gié Triêng giữ lửa nghề, bất ngờ với món quà cưới thiếu là bị chê
Ở vùng núi cao Nam Giang, đồng bào Gié Triêng vẫn ngày ngày dệt nên bản sắc văn hóa riêng bằng bàn tay khéo léo và tinh thần bền bỉ - từ khung cửi mộc mạc, chiếc gùi tre... Những nghề xưa tưởng đã mờ phai, nay vẫn sống động như hơi thở bản làng.
XEM CLIP:
Chúng tôi về xã Đắc Pring (huyện Nam Giang, Quảng Nam) – nơi biên giới giáp ranh với Lào, vào những ngày nắng đầu hè. Dưới tán rừng xanh, từng căn nhà sàn nép mình bên sườn núi, tiếng cửi dệt vang lên nhịp nhàng giữa trưa vắng, tạo thành giai điệu bình yên của một bản làng còn lưu giữ nguyên vẹn truyền thống.
Độc đáo món quà cưới không thể thiếu
Trong căn nhà nhỏ ở thôn 49B, nghệ nhân Kring Thị Viết (63 tuổi) đang cùng năm cô con dâu ngồi bên khung cửi. Đôi tay bà thoăn thoắt luồn sợi, dệt nên những hoa văn cầu kỳ trên nền vải. Những đường nét ấy là kết quả của cả một quá trình công phu: từ trồng bông, phơi sợi, nhuộm vải cho đến dệt từng mũi chỉ theo kỹ thuật cổ truyền.
Là một trong những nghệ nhân tiêu biểu của cộng đồng Gié Triêng, bà Viết nắm giữ nhiều bí quyết dệt thổ cẩm. Theo bà, các mẫu hoa văn được dệt hoàn toàn bằng tay, là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và tâm hồn của người phụ nữ vùng cao. Khung cửi bằng gỗ chỉ có thể dệt được những tấm vải khổ hẹp, nhưng từng sợi chỉ lại chứa đựng cả truyền thống dân tộc.

Suốt bao thế kỷ qua, nghề dệt của phụ nữ Gié Triêng là một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa. Ảnh: Hà Nam
Bông được trồng vào tháng 4, thu hoạch đầu tháng 10, sau đó xe thành sợi. Để có những màu sắc “ưng cái bụng”, người Gié Triêng phải tìm hiểu, nghiên cứu từ nhiều loại vỏ cây, ốc... Nhuộm màu là cả một quá trình đúc kết kinh nghiệm từ đời này sang đời khác, trở thành bí quyết.
“Váy của phụ nữ Gié Triêng thường có màu chàm đen, với các hoa văn trang trí kết hợp giữa màu đỏ và màu trắng, vàng. Mỗi hoa văn đều kể lại câu chuyện về bản làng, tổ tiên, thần núi, thần suối. Đối với nam giới, trang phục thường là khố, áo choàng hoặc đội khăn đầu. Những tấm vải không chỉ dùng để mặc mà còn được xem là món quà trao tặng trong các dịp trọng đại như cưới hỏi, lễ hội”, bà Kring Thị Viết chia sẻ.

Nghệ nhân Kring Thị Viết thành thạo các công đoạn tạo hoa văn, họa tiết cho những tấm vải truyền thống của đồng bào Gié Triêng. Ảnh: Hà Nam

Qua bàn tay khéo léo của phụ nữ Gié Triêng, những bộ trang phục truyền thống trở nên sống động, phản ánh vẻ đẹp riêng biệt của đồng bào nơi đây. Ảnh: Hà Nam
Nếu như phụ nữ Gié Triêng lưu giữ truyền thống trên từng tấm vải thổ cẩm, thì đàn ông nơi đây lại góp phần bằng kỹ nghệ đan gùi – một nghề không thể thiếu trong đời sống nương rẫy.
Già làng Phong Nhấp (69 tuổi) kể: “Tôi học đan gùi mây từ cha và làm nghề từ năm 20 tuổi. Nhờ có nghề đan lát và làm nương rẫy, tôi nuôi được 10 con”.
“Trước đây cuộc sống khó khăn lắm, giờ đỡ hơn nhờ có sự quan tâm của nhà nước và chính quyền địa phương nên có điện thắp sáng. Tối đến không phải đốt đuốc vót nan nữa…”, già Nhấp cười.

Già Nhấp kể, mỗi lần con trai cưới vợ, ông đều tự tay đan cho một chiếc gùi thật đẹp để làm quà cưới cho dâu mới. Ảnh: Hà Nam
Theo già Nhấp, khi có đủ nguyên liệu thì việc hoàn thành 1 chiếc gùi mây sẽ trong 1 ngày. Nếu đem gùi ra chợ bán thì được 700.000 đồng/ chiếc. Công đoạn khó nhất và mất nhiều thời gian là chẻ, vót nan...
“Gùi của người Gié Triêng không chỉ là cái “ba lô” bằng tre và dây mây để đeo lên rẫy mà còn là biểu tượng văn hóa, là món quà cưới không thể thiếu, là “gia tài” cha truyền con nối”, già Nhấp nói. Ông cho hay, phong tục ở đây, lấy vợ, lấy chồng bắt buộc phải có gùi mây. Gùi mây đưa về nhà gái như một lễ vật.

Nguyên liệu làm gùi là tre, nứa, mây rừng được vót thành sợi nan mỏng, mềm, dẻo. Ảnh: Hà Nam
Theo già Nhấp, nếu không có cái gùi này đưa cho nhà gái là họ chê. Họ chê “lấy chồng chi mà không có cái gùi…”. Có đám cưới ở làng, lễ vật nhiều thì 20 cái gùi. Trong gùi mang qua nhà gái là gạo nếp, cá khô…
“Ngày xưa ai đan gùi đẹp được con gái để ý lắm. Tôi cũng nhờ đan gùi mà cưới được vợ xinh đẹp, đảm đang”, già Nhấp cười hiền.
Giờ đây, ông vẫn ngày ngày chuốt tre nứa, vót mây rừng, đan gùi, làm rổ rá tặng cho con, cháu. Theo già Nhấp, với người Gié Triêng, “gùi cha đan, váy mẹ dệt” không chỉ là vật dụng, mà là niềm tự hào của dòng họ, là ký ức bản làng theo suốt một đời người. Khi đi rẫy, mang trên lưng chiếc gùi của cha, mặc váy mẹ dệt – người Gié Triêng như mang cả quê hương trên vai.

Già Nhấp dạy cô con dâu út Kring Thị Nô (SN 1995) cách đan gùi truyền thống. Ảnh: Hà Nam
Giữ nghề như giữ rừng
Bên cạnh nghề dệt và đan, người Gié Triêng còn có một loại nhạc cụ dân gian với tên gọi “đinh tút”. Trong tiếng Gié Triêng, “đinh” là ống nứa, “tút” là âm thanh. Nhạc cụ này được làm từ 6 ống trúc có chiều dài và âm vực khác nhau, gọi là: Piđu, Piđy, Chel, Chắk, Rơn 1 và Rơn 2.
Theo nghệ nhân Phông Quốc Quyền (57 tuổi), đinh tút ra đời từ chính lao động nông nghiệp. Ngày xưa, người dân dùng ống lồ ô đựng hạt giống đi trỉa. Gió thổi qua ống phát ra âm thanh vui tai. Từ âm thanh đó, người Gié Triêng sáng tạo ra “đinh tút” - một nhạc cụ đặc trưng vừa để giải trí vừa mang ý nghĩa nghi lễ.

Nghệ nhân Phông Quốc Quyền cho biết, đinh tút là một loại nhạc cụ đặc sắc trong kho tàng nhạc cụ dân tộc của đồng bào Gié Triêng. Ảnh: Hà Nam
Khi trình diễn, sáu người đàn ông - mỗi người thổi một ống. Họ vừa nhún nhảy mô phỏng động tác trỉa lúa, vừa hòa âm tạo nên bản nhạc dân gian sống động giữa núi rừng.
Già Kring Nhê’h (75 tuổi) - một trong những nghệ nhân chế tác “đinh tút” giỏi nhất làng cho biết, người thổi đinh tút phải có sức khỏe, thẩm âm tốt và kỹ thuật lồng hơi chuẩn xác. Chọn trúc là khâu quan trọng nhất. Âm thanh hay hay dở phụ thuộc hoàn toàn vào thẩm âm khi khoét ống. Buồn là lớp trẻ bây giờ đâu mấy ai học nữa…
Giữa nhịp sống hiện đại, những nghề truyền thống ấy đang đứng trước nhiều thách thức. Tre nứa, bông vải ngày càng hiếm. Người trẻ rời bản đi học, ít ai quay về học nghề. Hàng may mặc công nghiệp rẻ hơn, dễ mua hơn, khiến sản phẩm thủ công khó tiêu thụ.
Theo ông Hiên Quyền - Phó Chủ tịch UBND xã Đắc Pring, hiểu được điều đó, những năm gần đây, chính quyền địa phương đã phối hợp cùng các nghệ nhân mở lớp truyền dạy nghề truyền thống cho thanh thiếu niên. Các chương trình phục dựng lễ hội, tổ chức biểu diễn đinh tút, múa dân tộc… cũng được triển khai đều đặn. Sản phẩm truyền thống đang từng bước “ra khỏi bản làng” - đến với hội chợ, triển lãm, trở thành quà tặng, phụ kiện thời trang, đồ lưu niệm có giá trị văn hóa.
Giữa đại ngàn Trường Sơn, khi tiếng cửi vẫn gõ đều, khói bếp vẫn hun gùi tre, tiếng “đinh tút” vẫn ngân vang – thì văn hóa Gié Triêng vẫn đang sống. Không ồn ào, không phô trương - họ giữ nghề như giữ rừng. Bởi với họ, một tấm vải thổ cẩm, một chiếc gùi, một khúc “đinh tút”… cũng đủ gìn giữ linh hồn của cả một dân tộc.