Ý nghĩa các biểu tượng trong lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui
Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui là hiện tượng văn hóa xã hội đặc sắc của cộng đồng người Jrai ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai. Nghi lễ này tập hợp nhiều biểu tượng văn hóa độc đáo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm linh của cư dân bản địa.
Lễ cầu mưa Yang Pơtao Apui được xem là nghi lễ tiêu biểu trong tín ngưỡng liên quan đến thần linh của người Jrai ở khu vực Đông Nam tỉnh. Trong bất kỳ nghi lễ cầu cúng nào liên quan đến thần linh cũng có phần văn cúng tức là những lời cầu xin, ca tụng, cam kết, hứa hẹn của con người với các vị thần linh. Theo quan điểm của chúng tôi, đây chính là một kiểu khế ước, hợp đồng trao đổi có điều kiện giữa 2 bên.
Tất cả nghi thức được tiến hành, lễ vật, quà tặng được dâng cúng trong buổi lễ đều nhằm đến mục tiêu cuối cùng là làm vừa lòng các thần linh để các vị bằng lòng đáp ứng những điều khoản mà con người mong muốn.
Trong đó, văn cúng giữ vai trò quan trọng đặc biệt, bởi nó như một bằng chứng được ký kết giữa 2 bên. Dù rằng các bài cúng của người Jrai không được viết ra, nhưng nó đã được đọc lên một cách rõ ràng cho cả 2 bên nghe và có người làm chứng là một số phụ tá và dân làng.

Thực hiện nghi lễ cúng cầu mưa Yang Pơtao Apui ở Plei Ơi, xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện. Ảnh: V.C
Bài văn cúng được nhà nhân học người Pháp Jacques Dournes chép lại vắn tắt theo lời kể của người Jrai địa phương tên H’Buany vào năm 1958, khi vùng đất này bị hạn hán, dân làng phải mời Pơtao Apui tiến hành lễ cầu mưa. Bài văn này được in trong công trình nổi tiếng “Pötao-một lý thuyết về quyền lực của người Jörai ở Đông Dương” vốn là luận án tiến sĩ của ông, được dịch và in 2 lần tại Việt Nam.
Có 2 đoạn nói rõ việc này, trong đó có đoạn viết: “Kính đấng chủ tể trên trời/Sao cho mây dâng buổi sáng sớm/Buổi tối mây đen/Mưa rào đổ xuống/Buộc chúng tôi phải trú mưa/Cho cá lên và cho ếch nhái kêu/Lời tôi khấn người đã biết/Lời tôi nói người đã nghe/Xin nhớ cho lời tôi”.
Chúng tôi tìm được 3 văn bản khác do các nhà nghiên cứu và hoạt động văn hóa tại địa phương cung cấp có nội dung tương tự nhau, chỉ khác một số chữ. Theo đó, lễ vật dâng cúng thần linh để cầu mưa là 1 con heo và 1 ché rượu cần. Đáng lưu ý, ngoài việc cầu xin mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt thì pháp sư còn thay mặt dân làng xin các thần ban cho sức khỏe, không bị dịch bệnh, trẻ con được sinh ra nhiều và đều khỏe mạnh, anh em trong nhà và làng xóm thương yêu, đoàn kết.
Trong nghi lễ cầu mưa tại Plei Ơi có các biểu tượng văn hóa đáng chú ý: thanh gươm/kiếm, lửa và vũ điệu của người đại diện dân làng kết nối với thần linh (xưa là Vua Lửa, nay là người phụ tá). Thanh gươm xuất hiện trong lễ cầu mưa vừa là linh khí giúp Vua Lửa kết nối với các vị thần, vừa là biểu tượng quyền lực được trao truyền qua các thế hệ. Vậy, chúng có mối quan hệ như thế nào với mưa?
Theo sự quan sát và tổng kết của các nhà nghiên cứu, gươm/kiếm trong nhiều nền văn hóa là biểu tượng hai chức năng, tức vừa có quyền lực hủy diệt vừa có quyền lực sáng tạo. Về mặt hình dạng, tạo hình của thanh gươm/kiếm được cho là biểu tượng của ánh sáng, tia chớp và ngọn lửa: “Lưỡi kiếm thiêng của người Nhật từ ánh chớp mà ra, lưỡi kiếm của vị tư tế trong kinh Vệ Đà là ánh sét của thần Indra. Vậy thanh kiếm cũng là lửa” (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2002). Trong quan niệm văn hóa tín ngưỡng, thanh gươm/kiếm liên quan trực tiếp đến nước, bởi nước là một thành tố tạo nên gươm/kiếm “việc tôi kiếm là cuộc hôn phối của nước và lửa” (Sđd).
Chúng ta biết rằng, chớp cũng như sét trong văn hóa Việt Nam cũng như nhiều quốc gia Đông Á, Đông Nam Á gắn liền với mưa, hình dạng của chúng là những tia lửa trên bầu trời. Đến đây, chúng ta đã hình dung tương đối rõ ràng và logic về mối liên hệ hợp lý giữa gươm/kiếm với lửa và mưa.
Cũng tương tự như gươm/kiếm, trong văn hóa của nhiều quốc gia dân tộc châu Á, lửa cũng là một biểu tượng hai chức năng: tẩy uế và tái sinh. Theo các nhà nghiên cứu, trong Hindu/Ấn giáo, lửa có tầm quan trọng cơ bản, “phần lớn các mặt của biểu tượng lửa được thu tóm trong giáo thuyết đạo Hindu”, những vị thần quan trọng bậc nhất trong Ấn giáo là thần lửa Agni, thần sấm sét Indra và thần mặt trời Surya.
Trong các nghi lễ nông nghiệp, việc tẩy uế rất được chú trọng, bởi hành vi này thể hiện sự tôn kính và tinh khiết của con người dâng lên các vị thần linh trước khi cầu xin một điều gì đó. Để tẩy uế, lửa là thứ được nhiều pháp sư sử dụng. Trong lễ cầu mưa tại Plei Ơi, bản thân người đứng đầu ban nghi lễ cầu mưa được gọi là “Yang Pơtao Apui” tức cũng được xem là một dạng hóa thân của lửa hoặc người góp phần tạo ra ngọn lửa.
Soi chiếu vào nghi lễ cầu mưa của Pơtao Apui, chúng ta sẽ lý giải được yếu tố lửa qua hình ảnh và danh xưng Vua Lửa tại sao lại xuất hiện trong nghi lễ này. Và ý nghĩa của thanh gươm/thanh kiếm Pơtao Apui sử dụng cũng như được cộng đồng xem là biểu tượng quyền lực chính thức của các Pơtao Apui thông qua nghi lễ trao gươm từ đời Vua Lửa này qua đời khác.
Cùng lúc với lời cầu nguyện là vũ điệu trình diễn minh họa sống động với những bước chân chậm rãi và đôi tay vẫy lên xuống nhịp nhàng. Nhiều ý kiến cho rằng, vũ điệu này là biểu trưng của chim đại bàng đưa lời nguyện cầu lên trời trao gửi cho các vị thần linh trên cao.
Tuy nhiên, tham khảo với tri thức nền lý giải vũ điệu được trình diễn trong lễ cầu mưa của nhiều dân tộc cổ xưa trên thế giới, như của người Pueblo-Zuni-Hopi ở châu Mỹ, người Maasai ở châu Phi, người Khmer ở Campuchia thì các điệu múa này đều gắn liền với mưa. Cụ thể đó là điệu múa của rắn (biểu tượng của nước) hoặc mây vần vũ, gió nổi, sóng lượn, mưa rơi diễn tả phụ họa cho các biểu tượng sấm chớp lửa sét phát ra từ thanh gươm, chứ không phải biểu tượng vũ điệu của loài chim.
Đặc biệt, khi quan sát một số nhân tố được bảo lưu trong lễ cầu mưa của Yang Pơtao Apui, như danh xưng “Pơtao Apui”, “Hơ Bia”, rồi tục kiêng cữ thịt bò, tục hỏa thiêu các Vua Lửa sau khi họ qua đời, những điểm tương đồng trong nghi lễ cầu mưa của người Jrai ở Plei Ơi với nghi lễ cầu mưa của người Chăm Balamon vùng Bình Thuận, Ninh Thuận… chúng tôi có thể đi đến nhận định rằng, có sự ảnh hưởng giao lưu văn hóa tín ngưỡng giữa người Jrai và người Chăm.
Điều này cũng phù hợp với thực tế lịch sử và giúp chúng ta trả lời được câu hỏi: Tại vùng Đông Nam tỉnh, người Chăm từng hiện diện từ nhiều thế kỷ trước, dấu tích hiện còn hoặc được ghi chép trong sử sách như tháp Bang Keng ở huyện Krông Pa, tháp Yang Mum và Drang Lai ở thị xã Ayun Pa.