Việt Nam có nhiều tiềm năng trở thành trung tâm chuyển dịch năng lượng Đông Nam Á

Việt Nam đang đứng trước nhu cầu cấp thiết về chuyển dịch năng lượng, với mục tiêu rõ ràng về phát triển bền vững để chuyển dịch từ cơ cầu năng lượng chủ yếu dựa vào than đá sang năng lượng tái tạo.

Quang cảnh Diễn đàn Tái định hình chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.

Quang cảnh Diễn đàn Tái định hình chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.

Việt Nam đứng trước nhu cầu chuyển dịch năng lượng

Ngày 17/10, Tạp chí Diễn đàn Doanh nghiệp tổ chức “Diễn đàn Tái định hình chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu: Nhận diện xu hướng, thách thức và giải pháp cho Việt Nam”.

Phát biểu khai mạc, ông Hoàng Quang Phòng - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, là nền kinh tế có độ mở lớn, chịu sự ràng buộc trên nhiều phương diện bởi thị trường quốc tế, Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ từ xu hướng chuyển dịch năng lượng toàn cầu. Vì thế Việt Nam cũng đã và đang xây dựng một chính sách phát triển năng lượng rõ ràng, dài hạn và có thể dự đoán được là điều kiện tiên quyết cho chuyển dịch năng lượng bền vững.

Theo ông Nguyễn Sĩ Đăng - Phó Vụ trưởng Vụ Đánh giá, thẩm định và giám định công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ), việc chuyển dịch sang năng lượng tái tạo không chỉ đem đến cơ hội tốt cho Việt Nam bởi những tiềm năng đang có, mà còn có thể biến Việt Nam trở thành trung tâm về chuyển đổi năng lượng khu vực Đông Nam Á.

Ông Abhinav Goyal, Giám đốc Dịch vụ tư vấn Dự án Đầu tư và Cơ sở hạ tầng PwC Việt Nam đánh giá, Việt Nam đang đứng trước nhu cầu cấp thiết về chuyển dịch năng lượng, với tham vọng và mục tiêu rõ ràng về phát triển bền vững để chuyển dịch từ cơ cầu năng lượng chủ yếu dựa vào than đá sang năng lượng tái tạo. Theo đó công suất nhiệt điện than dự kiến đạt đỉnh vào năm 2030 và sau đó giảm dần về 0 trong giai đoạn 2030 - 2050. Dự kiến năng lượng tái tạo sẽ chiếm phần lớn, 31% và 62% trong tổng năng lượng vào năm 2030 và 2050.

"Chuỗi cung ứng của nguồn cung năng lượng có sự thay đổi, tuy hiện vẫn dựa vào nhập khẩu, nhưng chuỗi cung ứng trong nước sẽ ngày càng được củng cố để đáp ứng được nhu cầu sử dụng năng lượng tái tạo đang gia tăng nhanh chóng", ông Abhinav Goyal chia sẻ.

Theo ông Goyal, việc dịch chuyển năng lượng sẽ tác động trực tiếp và mang đến nhiều cơ hội cho các bên liên quan trong chuỗi cung ứng. Với các nhà phát triển dịch vụ và cung cấp công nghệ, có những cơ hội đáng kể khi có thể đưa ra các giải pháp năng lượng tái tạo trong các lĩnh vực mới; cũng như sự phối hợp với các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp để đưa ra các chính sách hỗ trợ cho các sản phẩm và dịch vụ mới. Đồng thời, sự dịch chuyển sang năng lượng tái tạo cũng mang đến cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia thị trường này phát triển, từ đó tạo nguồn doanh thu mới, giảm chi phí năng lượng và cải thiện thương hiệu.

Thúc đẩy các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng

Tuy nhiên, theo ông Hoàng Quang Phòng, hiện chuyển dịch năng lượng vẫn có những điểm nghẽn pháp lý cần chỉnh sửa. Quá trình chuyển dịch năng lượng gắn với phát triển hạ tầng năng lượng, nếu được thực hiện tốt, sẽ thúc đẩy Việt Nam đạt được đồng bộ các mục tiêu về phát triển kinh tế, xã hội và môi trường, đáp ứng được tầm nhìn dài hạn của đất nước.

Đồng quan điểm, ông Goyal chỉ ra, có một số thách thức đáng kể như, khó khăn về mặt tài chính sẽ hạn chế mở rộng quy mô các dự án lớn; hoặc biến động chi phí nguyên vật liệu có thể dẫn đến các lỗ hổng trong chuỗi cung ứng; và thách thức nữa là hiện tỷ lệ nội địa hóa trong chuỗi cung ứng tại Việt Nam vẫn còn thấp. Do đó, ông Goyal kiến nghị cần phải áp dụng những biện pháp mạnh mẽ hơn để thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi cung ứng.

Nhìn vào chuỗi cung ứng linh kiện của ngành năng lượng tái tạo hiện nay có thể thấy, gần 90% nguồn cung của các dự án được nhập khẩu từ các quốc gia khác. Đây cũng là cơ hội mới để Việt Nam tăng cường sản xuất và tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi cung ứng linh kiện này. Để đạt được tầm nhìn dài hạn, Phó Chủ tịch VCCI cho rằng, Việt Nam cần định hướng thực hiện một chiến lược phát triển hạn chế phát thải carbon trong dài hạn và trung hòa carbon vào năm 2050 phù hợp với xu thế chung trên thế giới.

Bên cạnh những lợi ích về môi trường, chiến lược này có thể đem lại cho Việt Nam một số hiệu quả về kinh tế và tài chính vượt trội so với một lộ trình các-bon cao. Do đó cần sớm tháo gỡ rào cản chính sách, tăng cường các nguồn lực, thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ để thực hiện chiến lược giảm sâu phát thải carbon.

Theo ông Nguyễn Sĩ Đăng, một trong những yêu cầu để Việt Nam có thể đạt được những mục tiêu này là phải đảm bảo tự chủ công nghệ. Sự tự chủ về năng lượng không chỉ là vấn đề kinh tế mà vấn đề an ninh năng lượng. Trong quá trình chuyển đổi cần dựa vào những ưu thế Việt Nam đang có. Các nguồn điện Việt Nam đã làm chủ về công nghệ cần duy trì, không nên thay đổi một cách quá chóng vánh. Bởi, trong Quy hoạch điện VIII vẫn nói đến vai trò của thủy điện, chưa kể, trong những năm qua, Việt Nam đã làm chủ được công nghệ của nguồn năng lượng này và tạo ra được nguồn cung dồi dào, điển hình là thủy điện Sơn La, vì vậy, không nên từ bỏ nguồn năng lượng này mà cần có lộ trình chuyển đổi phù hợp.

Ngoài ra, theo ông Nguyễn Sĩ Đăng, các doanh nghiệp cũng nên tìm kiếm cơ hội từ chuyển dịch năng lượng để làm chủ công nghệ tiên tiến thông qua việc chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp nước ngoài…

Hải Yến

Nguồn TBNH: https://thoibaonganhang.vn/viet-nam-co-nhieu-tiem-nang-tro-thanh-trung-tam-chuyen-dich-nang-luong-dong-nam-a-156812.html
Zalo