Vị Tiến sĩ có công bồi đắp sĩ tử, trăm họ được nhờ

Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.

Khu lăng mộ cha con Tiến sĩ Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn.

Khu lăng mộ cha con Tiến sĩ Nguyễn Hiệu - Nguyễn Hoàn.

Không chỉ chăm lo bồi đắp, vun trồng cho các sĩ tử, Tiến sĩ Nguyễn Hiệu còn ra sức sửa bỏ những tệ hà khắc đem lại công bằng cho phu dịch, giảm nhẹ việc trưng thu thuế để cho trăm họ được nhờ.

Theo gương bố vợ “thề quyết đỗ Tiến sĩ”

Nguyễn Hiệu (1674 - 1735), vốn người họ Hà, sinh ra tại Hà Nội. Năm 8 tuổi, ông được người cô ruột đem về xã Lan Khê, Nông Cống, nay là xã Nông Trường (Triệu Sơn, Thanh Hóa) nuôi dưỡng và đổi theo họ của người chồng nên ông có tên là Nguyễn Hiệu.

Một số tài liệu cho biết, Nguyễn Hiệu nguyên có tên là Phan Công Sứ, là con trai thứ tư của ông Phan Thể (nguyên danh Hà Văn) tại làng Đức Trạch, huyện Thượng Phúc, đạo Sơn Nam (nay là làng Đức Trạch, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội).

Năm Nhâm Tuất (1682), ông theo cô ruột là Hà Thị Đuôi về xã Lan Khê (Thanh Hóa). Vì được chú rể là Nguyễn Hữu Pháp nhận làm con nuôi, nên ông đổi họ tên thành Nguyễn Sử, sau cải thành Nguyễn Hữu Tự. Từ nhỏ, ông đã có ý chí theo nghiệp khoa cử, từng theo học các thầy như Giám sinh Nguyễn Công Liệu ở Bố Vệ, Giám sinh Lê Huy Thục ở Hữu Bộc, Giám sinh Lê Thế Hiền ở Bát Căng.

Năm Đinh Mão (1687), Nguyễn Hiệu dự kỳ thi ứng khóa ở Nông Cống (Thanh Hóa), đỗ hạng trung, nhưng vì nhà nghèo nên không có tiền thông kinh. Được quan huyện động viên, ông tiếp tục đèn sách. Năm 17 tuổi, ông đổi tên thành Nguyễn Giai và tham dự kỳ thi Hương khoa Canh Ngọ (1690), đỗ Cống sĩ xếp thứ 4.

Năm Tân Mùi (1691), ông dự kỳ thi Hội, nhưng chỉ đậu Tam trường. Thi không đỗ, ông cưới bà Tống Thị Xuân - con gái của quan Tham chính Tống Nho. Dù vậy, ông vẫn nuôi ý chí “thề quyết đỗ Tiến sĩ”, nên theo học Hoàng giáp Phạm Công Thiện ở Bảo Triện (Gia Bình, Bắc Ninh) và Thám hoa Quách Giai ở Phù Khê (Thanh Quan, Thái Bình).

Cũng trong thời gian này, ông đổi tên thành Nguyễn Hiệu với hai lý do: Thứ nhất vì kiêng tên thầy dạy học của mình là Thám hoa Quách Giai; thứ hai, chữ Hiệu có nghĩa là bắt chước, có ý là bắt chước bố vợ là Tống Nho quyết tâm đỗ Tiến sĩ. Hơn nữa, bên trái chữ Hiệu có chữ Nhân, ý nhớ đến nguồn cội họ Hà.

Năm Đinh Sửu (1697), ông được bổ nhiệm làm Huấn đạo phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam khi 23 tuổi. Đến năm Canh Thìn (1700), ông tham dự kỳ thi Hội và đỗ Hội nguyên. Vào thi Đình, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, lúc này ông vừa 27 tuổi.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi Canh Thìn do Hàn lâm viện Hiệu lý Bùi Sĩ Tiêm vâng sắc soạn, có đoạn: “Bấy giờ người dự thi đông đến trên 2.000 người, chọn được hạng xuất sắc là bọn Nguyễn Hiệu 19 người.

Ngày tháng 5 triệu vào Điện thí, ban cho Nguyễn Đình Ức đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Tạ Đăng Huân 3 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Trần Toàn 15 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Ngày 22 xướng loa gọi tên người thi đỗ, quan Bộ Lễ rước bảng vàng ra treo ngoài cửa nhà Thái học. Sau đó lại ban cho áo mũ phẩm phục, hoa bạc yến Quỳnh, cưỡi ngựa đi xem phố phường, rồi vinh quy quê nhà…

Ơn khích lệ khen thưởng như thế có lẽ khó nói hết bằng lời. Vậy thì kẻ sĩ được đề danh vào bia đá này, sự đền đáp phải nên thế nào? Cố nhiên là phải khắc ghi ơn sâu, trau dồi đức hạnh, rèn giũa tiết tháo như giữ ngọc gìn vàng.

Khí phách phải trong suốt như băng tuyết, tấu bẩm phải như thuốc đắng đá châm, không xuê xoa dễ dãi; nói bàn phải chắc chắn thẳng ngay, không a dua dựa dẫm, suy nghĩ thì phải lo làm sáng pháp độ hoàng gia”.

Sau khi đỗ Tiến sĩ, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh cử làm Giám sát ngự sử đạo Kinh Bắc. Đến năm 1702, ông được Thế tử Trịnh Cương mời vào phủ chúa với tư cách là một gia khách đặc biệt, cấp cho 12 tùy binh theo hầu, đồng thời năm sau lại giao cho chức Nội tán, chăm lo công việc nội phủ.

 Đền thờ Nguyễn Hiệu tại Thanh Hóa.

Đền thờ Nguyễn Hiệu tại Thanh Hóa.

Vun đắp sĩ tử, cất nhắc người tài

Khi Trịnh Cương lên nối ngôi chúa, Nguyễn Hiệu được mời về kinh thành giữ chức Đô cấp sự trung hình khoa (1709), thăng làm Hồng lô Tự khanh (1714). Đặc biệt vốn là vị quan thanh liêm, chính trực, ông đã dâng sách “Trị bình” (1715), được chúa Trịnh xem khen và “cất nhắc dùng vào việc lớn của quốc gia”, phong lên chức Thiêm sai Bồi tụng.

Kể từ đây cuộc đời và sự nghiệp chính trị của Nguyễn Hiệu liên quan nhiều tới việc tổ chức, tuyển chọn quan lại. Ông không chỉ góp phần lựa chọn cho triều đình nhiều vị quan có đức, có tài mà còn minh oan cho một số người. Trong đó có trường hợp Tiến sĩ Trần Đình Thu bị nghi gian lận thi cử, nên dù được cử giữ chức Cấp sự trung bộ Binh nhưng chúa vẫn quyết định cách hết quan chức, khoa giáp.

Nguyễn Hiệu kịp thời can ngăn để chờ kết quả điều tra, cuối cùng Trần Đình Thu được miễn. Gia phả của Nguyễn Hiệu có ghi: “Cụ coi việc tuyển dụng quan lại trên 10 năm nhưng không hề xin, nhận, gửi của ai, chỉ tùy theo đức hạnh, tài năng, công lao và thâm niên để cắt đặt vị trí quan chức cho mọi người, lại miễn lệ nạp tiền, nạp gạo, sĩ phu ai ai cũng phục”.

Cũng vì tin tưởng vào tài đức của Nguyễn Hiệu, chúa Trịnh giao ông dạy Thế tử Trịnh Giang tức Trịnh Khương, phong cho ông chức Tả tư giảng và Hình bộ Tả thị lang (1717). Công lao đóng góp của ông nhiều, vì thế qua mỗi lần ban ân của triều đình, Nguyễn Hiệu đều được ban thưởng. Ông đã được ban tước hầu (1720), rồi sau là tước Nông quận công (1722).

Năm Quý Mão (1723), tuy là người có học lực khá, nhưng có việc vướng mắc nên Võ Danh Toại không được dự kỳ thi Hương. Nguyễn Hiệu đã giữ Võ Danh Toại làm gia khách, cho học tập cùng với con cái của mình. Sau này, Võ Danh Toại đỗ Hương nguyên khoa Kỷ Dậu (1729) và đỗ Hoàng giáp khoa thi Kỷ Tỵ (1739).

Năm 1726, Thanh Hóa bị nạn đói hoành hành, Nguyễn Hiệu là người được triều đình tin cẩn giao cho 14 vạn quan tiền ở kho để chẩn cấp cho dân. Với trọng trách của mình, ông vừa kịp thời cứu dân thoát đói đồng thời đảm bảo tiền bạc của nhà nước không bị thất thoát. Năm 1727, ông được phong Đô Ngự sử, năm 1730 được cử giữ chức Thượng thư bộ Binh.

 Nguyễn Hiệu đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khi 27 tuổi.

Nguyễn Hiệu đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khi 27 tuổi.

Cũng chính trong năm 1930, do triều đình tăng tiền thuế, nhiều hộ đã bỏ làng đi trú ngụ. Nhìn thấy cảnh những người trong làng thì khốn đốn, các hộ trú ngụ thì nhà cửa vững vàng, ông nhận ra có sự không công bằng.

Bởi vì lấy cớ là người trú ngụ mà họ được trốn thuế. Nguyễn Hiệu đã tâu lên và xin không kể người trong làng, hay trú ngụ, cứ tính từng hộ để thu thuế cho đúng. Những kế sách của ông đã phần nào giúp cuộc sống người dân bớt chút khốn khó, bất công.

Năm Nhâm Tý (1732), trong đợt ban ơn cho văn võ bách quan, Nguyễn Hiệu được thăng làm Thiếu phó, vinh phong Tá lỵ công thần. Sau đó Trịnh Giang cầm quyền, trong nước phát sinh nhiều bè đảng, Trịnh Giang muốn ra tay trừng trị.

Như trường hợp Đỗ Bá Phẩm bị Trịnh Giang giáng xuống làm Tuần phủ Yên Quảng, sau đó khép Đỗ Bá Phẩm vào tội chết và giao cho Nguyễn Hiệu bàn luận việc này.

Với bản tính nhân từ, Nguyễn Hiệu cố ý trì hoãn. Do trái ý Trịnh Cương nên ông bị giáng chức xuống làm Thượng thư bộ Hình và miễn chức Tham tụng vào tháng 7/1734. Sau đó, vào tháng 11 cùng năm, nhân dịp Trịnh Giang được phong làm Đại nguyên soái thống quốc chính Thượng sư Thái phụ thông đức anh nghị Thánh Uy vương, đã ban ơn cho văn võ bá quan, lại cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo, vào phủ chúa làm việc như cũ.

Trở lại phủ chúa chưa được bao lâu, Nguyễn Hiệu bệnh nặng và qua đời khi vừa bước vào tuổi 62. Sách “Đại Việt sử ký tục biên” chép về như sau: “Nguyễn Hiệu là người trọng hậu, giữ mình ngay thẳng, thích bồi dưỡng kẻ sĩ, dẫn dắt kẻ hậu tiến. Đối với quan nhỏ cũng tiếp đãi theo lễ.

Lúc tuổi già cầm đại chính, mong đổi phép tắc hà khắc, sửa phú dịch cho công bằng, nhẹ việc trưng thu thôi thúc, đều tự mình chủ bàn những việc ấy, trăm họ được nhờ”. Sau khi mất, Nguyễn Hiệu được triều đình Lê - Trịnh tặng chức Thái bảo và truy tặng Đại tư đồ, gia phong làm Phúc thần.

Cha tài sinh con giỏi

Con trai Nguyễn Hiệu là Nguyễn Hoàn (1713-1792) nổi tiếng là thông minh, hiếu học, được nhiều thầy dạy khen là kỳ tài. Năm 20 tuổi tham gia ứng thí đỗ Giải nguyên, thi Hội đậu Tam trường, được bổ dụng làm Đại lý tự Thừa, sau lại thăng Tri phủ Thiên Phúc (xứ Kinh Bắc).

 Năm 1743, Nguyễn Hoàn đỗ Tiến sĩ - cùng khoa với Phan Kính.

Năm 1743, Nguyễn Hoàn đỗ Tiến sĩ - cùng khoa với Phan Kính.

Năm Quý Hợi (1743), tức 8 năm sau khi người cha là Nguyễn Hiệu mất, Nguyễn Hoàn tiếp tục khoa cử, đỗ Hội nguyên năm 31 tuổi; vào Đình thí đỗ tên thứ 2 trong hàng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Hàn lâm viện Thừa chỉ Bạch Phấn Ưng vâng sắc soạn, có đoạn: “Bấy giờ, kẻ sĩ tới kinh dự thi không dưới hơn 2.000 người. Qua trường bốn, chọn hạng xuất sắc được bọn Nguyễn Hoản (Hoàn) 7 người.

Tháng 12 vào Điện thí, Hoàng thượng đích thân ra đề thi văn sách, hỏi những việc lớn trong phép kinh luân thiên hạ. Ngày hôm sau, quan Độc quyển dâng quyển, Hoàng thượng đích thân ngự lãm, định thứ tự cao thấp.

Ban cho Phan Kính đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh, Trần Văn Trứ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, bọn Lê Hoàng Vĩ 5 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân. Loa truyền người đỗ, bảng vàng nêu tên, ban cho áo mũ triều phục, yến Quỳnh hoa bạc, ơn huệ dồi dào”.

Nguyễn Hoàn từng giữ chức Nhập thị Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, Tri Quốc tử giám, Tri Đông các, Tri Hàn lâm viện sự, tước Viện quận công… được chúa Trịnh Sâm kính trọng, tôn làm Quốc lão - một trong năm vị nguyên lão đại thần, được mời tham dự các cuộc họp triều đình.

Trong sự nghiệp của mình, Nguyễn Hoàn luôn là người theo sát với tư cách thầy dạy theo dõi học trò, năm Mậu Tý (1768) Nguyễn Hoàn dâng lên chúa Trịnh Sâm cuốn Tiềm long thực lục ghi chép tường tận mọi việc Trịnh Sâm làm trong thời gian còn là Thế tử để chúa ngẫm nghĩ mà tự sửa mình. Cuối năm đó, Nguyễn Hoàn lại dâng chúa cuốn “Kim giám tập”, cũng là loại sách kinh điển dạy cho người làm chính trị.

Công lao dạy dỗ kèm cặp về học vấn và chính trị của ông được chúa Trịnh Sâm đánh giá cao, năm 1768 chúa Trịnh đã phong danh hiệu Quốc sư cho Nguyễn Hoàn. Trong những năm 1775 - 1777 ông hai lần được thay mặt vua, chúa đi tế Nam Giao, hai lần được chúa giao trông nom việc chính sự ở kinh thành khi chúa có việc phải đi kinh lý.

Ông có nhiều đóng góp trong việc biên soạn bộ “Đại việt sử ký tục biên” ghi chép các sự kiện cuối đời Lê và là người có công sưu tầm chỉnh lý bộ “Đại Việt lịch triều đăng khoa lục”.

Ông còn soạn nhạc chương phần “Lương Mục vương”, soạn văn bia Quỳnh Phúc tự bi ký, nhuận sắc Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Quý Mùi, niên hiệu cảnh Hưng năm thứ 24 (1763), soạn Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Ất Mùi, niên hiệu cảnh Hưng năm thứ 36 (1775) và Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Mậu Tuất, niên hiệu cảnh Hưng năm thứ 39 (1778).

Nguyễn Hoàn cũng như người cha, không chỉ là đại thần trụ cột triều đình, mà còn viết sách, làm thơ. Ông nổi tiếng với các tác phẩm: Thập châm (10 bài châm), Tiềm long thực lục, Kim giám tập.

Nhân việc lên ngôi của Lê Hiến Tông, triều đình xét công trạng của Nông quận công Nguyễn Hiệu nên đã cho lập đền thờ. Hiện ngôi đền thờ tọa tại thôn 3, xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn quê hương ông và được dân gian gọi là phủ Đại Vương. Đền thờ Nguyễn Hiệu đã được xếp hạng là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Hiện đền thờ còn lưu giữ được hàng trăm hiện vật quý, trong đó có bức trúc thư của vua Lê Hiển Tông tặng cha con Nguyễn Hiệu vào năm 1775; 4 câu đối bằng gỗ có niên đại từ thế kỷ 18, lư hương đá và các bộ sắc phong.

Trần Siêu

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/vi-tien-si-co-cong-boi-dap-si-tu-tram-ho-duoc-nho-post721211.html
Zalo