Vì sao cần sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa?

Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hội nhập quốc tế, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa rất cần thiết.

Hoàn thiện thể chế trong quản lý chất lượng sản phẩm

Sáng 10/3, tại phiên họp thứ 43, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho biết, để thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế trong lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, trước yêu cầu mới của thực tiễn, hội nhập quốc tế và nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục các hạn chế của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa là rất cần thiết.

Theo ông Lê Xuân Định, trong bối cảnh Việt Nam mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng, dẫn đến hoạt động kinh tế đi vào chiều sâu, thực chất hơn, doanh nghiệp xuất khẩu ngày càng đối mặt với nhiều quy định, yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật tại các thị trường nước ngoài.

Bên cạnh đó, với chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu đối với sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ; nhu cầu đổi mới sáng tạo và tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; yêu cầu đổi mới mô hình quản lý khoa học công nghệ, phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia; vai trò, tầm ảnh hưởng của chất lượng sản phẩm, hàng hóa phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đến phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lớn.

Cùng với quá trình mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế liên quan tới hoạt động tiêu chuẩn chất lượng như Hiệp định về Hàng rào kỹ thuật trong Thương mại (WTO/TBT), Công ước quốc tế về các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (ICESCR). Bên cạnh đó, gần đây, Việt Nam đã ký kết 17 FTA thế hệ mới.

Đáng chú ý, trong các Hiệp định thương mại thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP...) có một Chương quy định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại. Theo đó luôn có một điều quy định về các thuật ngữ, định nghĩa về hiệp định/thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau, hậu kiểm, kiểm tra,...; một điều quy định về đánh giá sự phù hợp, một điều quy định về giám sát trên thị trường, một điều quy định về ghi nhãn.

Tuy nhiên, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa hiện nay chỉ đưa ra các nguyên tắc chung, phù hợp với thời điểm năm 2007 khi Việt Nam mới gia nhập WTO.

Vì vậy, có thể thấy quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa hiện nay chưa đáp ứng hoàn toàn với yêu cầu hội nhập quốc tế khi chúng ta đã ký kết, tham gia các FTA thế hệ mới, với các cam kết mở hơn cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được thực hiện đánh giá sự phù hợp tại Việt Nam, các quy định về hậu kiểm, kiểm tra/giám sát thị trường, thừa nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp. Do vậy, cần thiết phải xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Nội luật hóa các cam kết quốc tế

Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Lê Xuân Định cho hay, mục đích xây dựng dự án Luật nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Bảo đảm phục vụ hiệu quả quản lý nhà nước, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức khỏe con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013.

Đồng thời, nâng cao tính khả thi của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa và bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Tiếp thu, nội luật hóa các cam kết quốc tế, bảo đảm sự tương thích giữa quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam với các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp, giảm thiểu các rào cản kỹ thuật trong thương mại, thuận lợi hóa thương mại.

Về cơ bản, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa vẫn giữ nguyên phạm vi điều chỉnh của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 như sau: Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa; quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Sau khi sửa đổi, bổ sung thì Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa có 6 chương và 66 điều. Nội dung cơ bản của dự án Luật gồm: Nội dung sửa đổi, bổ sung các điều, khoản tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để thể chế hóa thực hiện Chính sách 1 “Đổi mới việc xác định sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hóa nhóm 2) và hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa” trong hồ sơ đề nghị xây dựng luật đã được Quốc hội thông qua.

Nội dung sửa đổi, bổ sung các điều, khoản tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để thể chế hóa thực hiện Chính sách 2 “Ứng dụng công nghệ trong quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm, hàng hóa” trong hồ sơ đề nghị xây dựng luật đã được Quốc hội thông qua:

Nội dung sửa đổi, bổ sung các điều, khoản tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để thể chế hóa thực hiện Chính sách 3 “Phát triển hạ tầng chất lượng quốc gia bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế” trong hồ sơ đề nghị xây dựng luật đã được Quốc hội thông qua.

Nội dung sửa đổi, bổ sung các điều, khoản tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa để thể chế hóa thực hiện Chính sách 4 “Tăng cường tính hiệu quả của hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đẩy mạnh phân công, phân cấp quản lý để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay” trong hồ sơ đề nghị xây dựng luật đã được Quốc hội thông qua.

Thẩm tra dự án Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy nêu rõ, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tán thành với sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa với những lý do như đã nêu trong Tờ trình số 132/TTr-CP của Chính phủ.

Nội dung sửa đổi, bổ sung trong Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và 4 nhóm chính sách đề xuất sửa đổi Luật đã được Quốc hội thông qua; bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, cần rà soát để bảo đảm phù hợp với các quy định của Luật có liên quan; bảo đảm phù hợp đổi mới tư duy trong công tác xây dựng pháp luật.

Tuy nhiên, ông Lê Quang Huy đề nghị tiếp tục rà soát các nội dung cần sửa đổi, bổ sung theo 04 nhóm chính đã được Quốc hội thông qua. Đồng thời, trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật, nếu phạm vi sửa đổi vượt ra khỏi 4 nhóm chính sách này thì cần bổ sung đánh giá tác động chính sách.

Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2007 (Luật số 05/2007/QH12), có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2008 là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa.

Tuy nhiên, quá trình tổng kết, đánh giá sau 17 năm thực hiện cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007 đã phát sinh một số bất cập, hạn chế, đòi hỏi phải sửa đổi để phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy sự phát triển.

Quỳnh Nga

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/vi-sao-can-sua-doi-luat-chat-luong-san-pham-hang-hoa-377521.html
Zalo