Ứng phó với tình trạng già hóa dân số

Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng. Song mức sinh của Việt Nam hiện có xu hướng giảm và giảm khá nhanh trong những năm gần đây. Theo ông Phạm Hoài Nam, Vụ trưởng Vụ Thống kê dân số và lao động, Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia trên thế giới khi mức sinh đã giảm thì khó có xu hướng tăng trở lại.

Phóng viên (PV):Ông có thể chia sẻ một vài nét chính của thị trường lao động năm 2024?

Ông Phạm Hoài Nam: Việt Nam, giống như nhiều quốc gia trên thế giới, đang trải qua quá trình phát triển kinh tế và công nghiệp hóa nhanh chóng. Trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa và công nghiệp hóa, nhu cầu về nhân lực có trình độ cao và có kỹ năng đặc biệt rất quan trọng. Việt Nam đã chú trọng vào việc nâng cao chất lượng giáo dục và mở rộng cơ sở hạ tầng giáo dục để cung cấp cơ hội học tập cho nhiều người dân hơn.

Ông Phạm Hoài Nam.

Ông Phạm Hoài Nam.

Năm 2024, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đạt hơn 52,7 triệu người, tăng khoảng 349,2 nghìn người so với năm 2023. Trong đó, lực lượng lao động đã qua đào tạo có bằng, chứng chỉ ước đạt 28,3%, tăng 1,1 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Năm 2024, lao động có việc làm đạt 51,9 triệu người, tăng 585,1 nghìn người (tăng 1,14%) so với năm 2023. Năm 2024, thu nhập bình quân tháng của người lao động là 7,7 triệu đồng, tăng 8,6%, tương ứng tăng 610.000 đồng so với năm trước.

PV:Thị trường lao động có xu hướng phục hồi, tuy nhiên vẫn còn những hạn chế. Ông có thể phân tích rõ hơn về vấn đề này?

Ông Phạm Hoài Nam: Thị trường lao động vẫn tiếp tục xu hướng phục hồi, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều điều đáng bàn, nhất là chất lượng lao động. Cả nước vẫn còn 71,4% lao động chưa qua đào tạo, chưa có bằng, chứng chỉ. Cùng với đó, lao động có việc làm có xu hướng tăng nhưng thị trường lao động phát triển chưa bền vững khi số lao động phi chính thức làm những công việc bấp bênh, thiếu tính ổn định vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng hơn 3/5 tổng số lao động có việc làm của cả nước. Tại Việt Nam, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên 15-24 tuổi trong quý IV-2024 ở mức 7,96%, thấp hơn so với mức trung bình của toàn cầu nhưng vẫn duy trì mức cao.

PV: Việt Nam vẫn trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, tuy nhiên vài năm qua, mức sinh của Việt Nam đang giảm mạnh. Con số này nói lên điều gì, thưa ông?

Ông Phạm Hoài Nam: Kết quả điều tra dân số và nhà ở giữa kỳ năm 2024 cho thấy, tổng tỷ suất sinh của Việt Nam là 1,91 con/phụ nữ. Đây là mức sinh thấp nhất quan sát được từ trước đến nay. Kể từ năm 2009 đến 2022, trong suốt gần 15 năm, mức sinh của Việt Nam giữ trạng thái tương đối ổn định xung quanh mức sinh thay thế. Tuy nhiên, trong hai năm gần đây (2023-2024), mức sinh của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu giảm nhanh hơn.

Tổng số 32 tỉnh, thành phố có mức sinh thấp hơn mức sinh thay thế (dưới 2,1 con/phụ nữ); có 25 tỉnh, thành phố có mức sinh dao động xung quanh mức sinh thay thế và 6 địa phương có mức sinh cao hơn mức sinh thay thế (cao hơn 2,5 con/phụ nữ). TP Hồ Chí Minh là địa phương có mức sinh thấp nhất cả nước (1,39 con/phụ nữ), Hà Giang có mức sinh cao nhất cả nước (2,69 con/phụ nữ). Rõ ràng, mức sinh của Việt Nam đang có xu hướng giảm và giảm khá nhanh trong những năm gần đây. Kinh nghiệm nhiều quốc gia trên thế giới như các nước châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc cho thấy, khi mức sinh đã giảm thì khó có xu hướng tăng trở lại. Vì vậy, nếu chúng ta không sớm có những chính sách kịp thời, mức sinh sẽ tiếp tục giảm trong những năm tiếp theo.

Hoạt động sản xuất tại Công ty Cổ phần Xuân Hòa Việt Nam (Vĩnh Phúc). Ảnh: LIÊN HƯƠNG

Hoạt động sản xuất tại Công ty Cổ phần Xuân Hòa Việt Nam (Vĩnh Phúc). Ảnh: LIÊN HƯƠNG

Vừa qua, Bộ Y tế đã có đề xuất không xử lý kỷ luật đối với đảng viên sinh con thứ ba trở lên. Đây là đề xuất phù hợp trong bối cảnh hiện nay. Ngoài ra, có thể nghiên cứu ban hành các chính sách khuyến khích sinh phù hợp với điều kiện kinh tế và văn hóa Việt Nam để mức sinh không giảm quá nhanh khi kinh tế phát triển.

PV: Vậy theo ông, đâu là giải pháp ứng phó với tình trạng già hóa dân số?

Ông Phạm Hoài Nam: Năm 2024, số lượng người già từ 60 tuổi trở lên là 14,2 triệu người, tăng 2,8 triệu người so với năm 2019 và tăng 4,7 triệu người so với năm 2014. Dự báo đến năm 2030, số người từ 60 tuổi trở lên xấp xỉ 18 triệu người, tăng gần 4 triệu người so với năm 2024. Như vậy, Việt Nam đang trong thời kỳ già hóa nhanh do tuổi thọ người dân tăng cao và mức sinh giảm. Già hóa dân số phản ánh sự thành công trong việc cải thiện điều kiện kinh tế, sức khỏe và phúc lợi xã hội của người dân. Sự tiến bộ của y tế và các chính sách chăm sóc sức khỏe đã giúp giảm nguy cơ tử vong, giúp người dân khỏe mạnh hơn và có tuổi thọ cao hơn. Vì vậy, ngoại trừ chính sách duy trì ổn định mức sinh, không để mức sinh giảm quá nhanh thì việc đặt vấn đề ngăn chặn tình trạng già hóa dân số là không phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển. Thay vào đó, chúng ta cần tìm giải pháp để ứng phó với vấn đề già hóa dân số.

Các chính sách có thể nghiên cứu áp dụng là: Cải thiện chính sách sử dụng hiệu quả nguồn cung lao động, đặc biệt là lao động lớn tuổi. Có những chính sách phù hợp tạo điều kiện và khuyến khích lao động lớn tuổi tham gia công việc phù hợp, đóng góp thêm sức lực cho gia đình và xã hội. Về lâu dài cần nghiên cứu các giải pháp để tăng tuổi nghỉ hưu đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định. Đồng thời, chúng ta cần mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội theo hướng thúc đẩy triển khai hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, đa trụ cột để nâng cao mức độ bao phủ toàn diện của hệ thống, góp phần nâng cao mức sống của người hưởng bảo hiểm xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; nâng cấp hệ thống chăm sóc y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe dài hạn cho người cao tuổi...

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

KHÁNH AN (thực hiện)

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/xa-hoi/cac-van-de/ung-pho-voi-tinh-trang-gia-hoa-dan-so-811067
Zalo