Tỷ phú bí ẩn của nước Mỹ
Ngay cả các nhân viên trong vương quốc Standard Oil lẫn những kẻ đối lập hoang tưởng ở Titusville đều nói rằng Rockefeller thoắt ẩn thoắt hiện như hồn ma.

Vào tháng 4 năm 1874, để tương xứng với vị thế gã khổng lồ dầu mỏ mới mẻ, Standard Oil đã chuyển trụ sở đến một tòa nhà bốn tầng mới tại số 43 đại lộ Euclid, phía Đông của Quảng trường Công cộng. Đằng sau một mặt tiền bằng đá nặng nề, hai tầng lầu của Standard Oil rất rộng rãi và thoáng mát, đón ánh sáng từ vòm kính mái nhà phía trên cầu thang trung tâm của tòa nhà.
Mỗi buổi sáng, đúng 9 giờ 15 phút, Rockefeller đến công ty trong bộ trang phục lịch sự, với chữ R được chạm nổi gọn gàng trên các khuy cài tay áo bạch ngọc đen; đối với một người xuất thân từ vùng nông thôn và thanh đạm, ông ngày càng trở nên khó tính. Một nhân viên kế toán nhớ lại: “Ngài Rockefeller bước vào với phong thái điềm tĩnh. Ông ấy ăn mặc không chê vào đâu được - trông như thể bước ra từ một chiếc hộp nhạc. Ông mang theo một chiếc ô và găng tay, đội một chiếc mũ lụa cao.”

Tranh chân dung John D. Rockefeller của Matt Pecson. Ảnh: etsy.
Ông luôn đi những đôi giày bóng lộn, vì thế đã tặng miễn phí bộ dụng cụ đánh giày cho mỗi phòng ban. Với dáng người cao lớn cùng nước da xanh tái và thích cắt tỉa gọn gàng bộ râu quai nón hung đỏ, ông luôn gọi thợ cắt tóc đến cạo râu vào cùng một giờ mỗi sáng. Cực kỳ đúng giờ trong mọi cuộc hẹn, ông nói: “Một người đàn ông không có quyền chiếm thời gian của người khác một cách không cần thiết.”
Với phong thái điềm tĩnh, Rockefeller nhẹ nhàng chúc các đồng nghiệp buổi sáng tốt lành, hỏi thăm sức khỏe của họ, sau đó biến mất vào văn phòng khiêm tốn của mình. Ngay cả các nhân viên trong vương quốc Standard Oil lẫn những kẻ đối lập hoang tưởng ở Titusville đều nói rằng ông thoắt ẩn thoắt hiện như hồn ma. Như một viên thư ký từng nhận xét: “Ông ấy rất kín đáo. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông ấy bước vào hoặc rời khỏi tòa nhà.”
Một đồng nghiệp nói: “Ông ấy không bao giờ ở đó, nhưng lại luôn ở đó.” Rockefeller hiếm khi đặt hẹn với những người lạ và ưu tiên trao đổi qua thư từ. Luôn cảnh báo ngăn chặn hoạt động gián điệp công nghiệp, ông không bao giờ muốn mọi người biết nhiều hơn những gì được yêu cầu và đã cảnh báo một đồng nghiệp: “Tôi rất cẩn thận khi để [ai đó] ngồi vào một vị trí mà anh ta có thể tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của chúng ta và gây ra nhiều phiền phức.”
Thậm chí các cộng sự thân cận cũng cảm thấy ông rất khó hiểu và không muốn tiết lộ suy nghĩ của mình. Như một người viết: “Ông ấy luôn giữ im lặng, vì thế chúng tôi thậm chí không thể dò xét sự phản đối của ông ấy, đôi khi thế mà không phải thế.”6 Được tôi luyện bản tính kín đáo, ông luôn giữ khuôn mặt lạnh lùng để khi các nhân viên đưa cho ông những bức điện tín, họ cũng không thể dựa vào biểu hiện của ông để biết đó là tin tốt hay tin xấu.
Rockefeller đánh đồng sự im lặng với sức mạnh: Kẻ yếu kém bộc lộ và ba hoa với nhà báo, trong khi doanh nhân khôn khéo giữ kín ý định của mình. Hai trong số những châm ngôn yêu thích nhất của ông là “Thành công đến từ việc mở đôi tai và khép cái miệng” và “Một kẻ chỉ nói mà không làm thì cũng như một khu vườn toàn cỏ dại”.
Chính thói quen giả câm giả điếc của Bill Lớn đã hình thành nên thói quen của con trai ông: nghe càng nhiều càng tốt và nói càng ít càng tốt để nắm bắt khía cạnh chiến thuật. Khi đàm phán, ông đã sử dụng chính bản tính trầm lặng của người miền Trung Tây tồn tại trong mình để tạo ảnh hưởng, giữ khoảng cách với mọi người và để họ tự suy đoán. Khi tức giận, ông có xu hướng trở nên im lặng một cách kỳ lạ.
Ông thích kể chuyện về một nhà thầu đã lao vào văn phòng của ông và chửi rủa ầm ĩ trong khi ông đang ngồi khom người tại bàn làm việc và không nhìn lên cho đến khi người đàn ông kia nói khô cổ. Sau đó, ông ngước lên và lạnh lùng hỏi: “Tôi chưa hiểu những gì ông nói. Ông có thể nhắc lại điều đó được không?”
Ông dành phần lớn thời gian tách biệt trong văn phòng riêng, nơi ông ghi lại giá dầu trên một tấm bảng đen. Ông thường xuyên chắp tay sau lưng và đi đi lại lại trong văn phòng đơn giản của mình. Cứ một khoảng thời gian nhất định, ông rời chỗ, đến ngồi trên chiếc ghế đẩu cao và nghiên cứu sổ sách, viết nguệch ngoạc các phép tính vào sổ và giấy. (Trong các cuộc họp, ông ghi chú không ngừng.)
Đôi khi, ông ngó ra ngoài cửa sổ, bất động như một pho tượng, nhìn chằm chằm lên bầu trời suốt 15 phút. Có lần, ông hỏi một cách cường điệu: “Không nhiều người trong chúng ta chấp nhận thất bại để đạt được những điều lớn lao... thất bại vì chúng ta thiếu tập trung - khả năng hướng tâm trí vào những việc phải làm vào đúng thời điểm và bỏ qua mọi thứ khác, phải vậy không?”