Trong sạch thoát tội
Có công được thưởng, có lỗi bị phạt, làm quan xưa nay vẫn được xử lý như thế. Nhưng, thời xưa, quan mắc lỗi mà trong sạch có cơ hội được xóa lỗi, sau đó vẫn được thăng chức. Thời nhà Nguyễn, có những vị quan như Tổng đốc Thanh Hóa Tôn Thất Lương, Thượng thư Bộ Lại Hoàng Văn Diễn, Thượng thư Bộ Hình Bùi Phổ là những vị quan trong sạch, đều được hưởng ân điển như vậy và được sử sách ngợi ca.
Tôn Thất Lương
Tôn Thất Lương (1793-1846) thuộc dòng thứ 7 tôn thất nhà Nguyễn, con thứ hai bà vợ thứ của Tư vụ hưu trí Tôn Thất Đào. Năm Minh Mạng thứ 5 (1824), sau sát hạch được bổ chức Hàn lâm viện Kiểm thảo, sung văn thư phòng hành tẩu; rồi thăng Lang trung Bộ Hộ Thự Thiêm sự. Năm thứ 9 (1828), thăng án sát sứ Thanh Hóa. Tại trấn Thanh Hóa, các quan đầu trấn (Trấn thủ Hồ Văn Trương, Tham hiệp Nguyễn Văn Thắng) được sai mua gỗ lim, đã dung túng thuộc hạ và người nhà thông đồng mua bán, gây thất thoát công quỹ và tham ô.
Việc bị phát giác, các quan này đều bị cách chức, ông cũng bị cách, phát phối đến pháo đài Trấn Hải (Quảng Nam) để lao dịch chuộc tội, sau đó bị phái đi phục vụ trên thuyền đi Trung Quốc giao dịch. Khi trở về, ông bắt đầu được khởi bổ trở lại, từ chức Tư vụ Mộc Thương, rồi thăng lên Viên ngoại lang Bộ Hình, Thự Án sát Thái Nguyên rồi đổi về làm án sát Quảng Trị.

Hiển lâm các, nơi triều Nguyễn thờ các vị quan có công lao.
Khi vào triều yết kiến, Vua Minh Mạng bảo ông rằng: “Tội ngươi đáng phải truất bãi nhưng vì trước ở Thanh Hóa, tự giữ được liêm khiết, hơi có đáng khen nên trẫm không bỏ mà thôi. Phải nên rất tự xấu hổ mà hăng hái lên, để cho sau này nên người tốt, ngươi phải nghĩ đấy”. Không bao lâu, ông lại được triệu về cho làm Lang trung Bộ Hình biện lý Bộ Hộ, rồi thăng Thự Hữu thị lang, rồi đổi ra làm Bố chính sứ Gia Định. Ở Gia Định đang làm việc đinh điền, Lương hết sức vâng mệnh thi hành, làm mọi việc đều đâu vào đấy cả, được vua khen, thưởng gia 1 cấp.
Năm 1838, ông được bổ làm Tham tri Bộ Binh, đi giữ chức Tuần phủ Thuận Khánh, có công đánh giặc biển từ Quảng Đông sang. Thấy Bình Thuận gạo kém, nhân dân khó kiếm gạo ăn, ông đem việc ấy tâu lên, vua sai phát thóc kho cho dân vay. Về ngạch thuế phải thu nộp năm ấy triều đình cũng chuẩn cho tạm hoãn, nên ông được dân rất biết ơn. Ông lại tâu xin vua cho lập trường học. Năm 1840, ông được thăng Thự Tổng đốc Bình Phú (Bình Định và Phú Yên). Ở Bình Định, ông xin khai cừ, khai nước, bắt dân khai khẩn cày cấy, được hơn 1.000 mẫu ruộng. Vua khen là vì dân làm việc lợi nên thưởng cho 1 cấp. Do có tang, ông xin về nhà chịu tang, rồi được khôi phục làm Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa. Vua cho 100 quan tiền, sai đến nơi lỵ sở.
Khi Vua Thiệu Trị lên ngôi (1841), gặp kỳ xét thưởng, nhà vua dụ rằng, Lương là người giữ mình trong sạch, cẩn thận, siêng năng chức việc, giao Bộ Lại ghi công để thăng chức. Ở Thanh Hóa, Tôn Thất Lương có công đánh dẹp Quách Công Quế, nên được thưởng quân công 1 cấp, và 1 đồng kim tiền. Năm Thiệu Trị thứ 4 (1845), khi xét công, ông được gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Đến năm 1847, được thăng Thự Hiệp biện Đại học sĩ, vẫn lĩnh chức Tổng đốc Thanh Hóa. Chưa được bao lâu, ông được đổi đi Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội và Ninh Bình), rồi qua đời ở tuổi 54, được tặng là Hiệp biện, chiếu hàm tặng mà cấp tiền tuất, được vua ban thêm các hạng gấm màu vải lụa và 1.000 quan tiền. Đầu triều Vua Tự Đức, ông được đưa vào thờ ở đền Hiền Lương, nơi thờ các công thần triều Nguyễn.
Sử nhà Nguyễn đánh giá Tôn Thất Lương là người “có chí khí giữ gìn, tính thanh liêm tiết nghĩa; khi ở Thanh Hóa, về việc bạn đồng liêu tham trang lấy của đút riêng, nhưng ông tuyệt không dính dáng đến chút nào”, do từng được Vua Minh Mạng khen ngợi nên bị cách bãi mà lại được khởi phục. “Tới khi mấy lần nhận giữ nơi trọng khổn, mà trong sạch, siêng năng giữ tiết tháo, vỗ yên, đánh bắt có phương pháp, có công lao rõ rệt, thực không hổ là người ở Khánh phả (tức người trong Tôn Thất)”, “Đại Nam liệt truyện” viết.
Hoàng Văn Diễn
Hoàng Văn Diễn quê ở huyện Phú Lộc, phủ Thừa Thiên. Lúc còn nhỏ đi học, ông gắng chí học hành để đỗ đạt. Thời Tây Sơn, ông chỉ dạy học trò. Năm Bính Thìn (1796) nghe tin chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định mở kỳ tuyển người văn học, ông vào Nam ứng tuyển, dự vào hạng đỗ vào viện Thị Thư, thường theo chúa đi đánh dẹp, lặn lội khó nhọc, được khen là có công. Khi Vua Gia Long chiếm lại kinh thành Phú Xuân, Văn Diễn vâng chỉ ở lại Quảng Nam giữ kho cho vua.
Năm Gia Long thứ nhất (1802), ông được bổ làm Ký lục doanh Quảng Nam. Năm thứ hai, đổi làm Cai bạ doanh Bình Định. Năm thứ 12 (1813), thăng Tả Tham tri Bộ Hộ, coi quản Nội đồ gia (sau này là Nội vụ) trải thăng qua các chức Hiệp trấn Sơn Tây, Sơn Nam. Năm Minh Mạng thứ nhất (1820), ông được thăng Hữu Tham tri Bộ Hộ lĩnh Hộ tào Bắc Thành, rồi đổi đi làm Hiệp trấn Thanh Hóa, vì làm việc án lầm lẫn nên bị cách chức.
Năm 1804, ông lại được khởi phục chức Hàn Lâm viện Tu soạn, rồi thăng Lang trung, bổ làm Thiêm sự bộ chính sứ, biện lý công việc Bộ Hộ. Năm 1806, ông được thăng lên Tả Thị lang Bộ Hình, lĩnh Binh tào thành Gia Định. Năm 1828, vua thăng ông làm Thự Tham tri Bộ Binh. Năm 1829, ông được chuyển đi làm Hiệp trấn Quảng Trị, sau đó 4 năm được bổ về triều làm Hữu Tham tri Bộ Công. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837), ông được thăng bổ Thượng thư Bộ Lại, là chức quan lớn đầu triều.
Năm 1838, Bộ Lại bàn cho là ông từng làm nhiều khoản có lỗi, đáng phải giáng luôn 5 cấp, mang hàm giáng về hưu trí. Nhưng, Vua Minh Mạng nghĩ Văn Diễn làm việc lâu năm, ở quan thanh bạch, phải nên đặc cách gia ơn đặt ở chức nhàn tản, cải bổ ông làm Hữu Thị lang Bộ Lại, sung Sư bảo (thầy dạy) của các hoàng tử còn bé. Đến năm 1839, vua thăng ông lên làm Thự Tham tri, vẫn sung chức Sư bảo.
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) ông lấy cớ là tuổi già xin về hưu. Năm 1846, gặp tiết Tứ tuần đại khánh của vua, ông vào lạy mừng, được ban cho tiền lụa rất hậu. Tới khi Vua Tự Đức lên ngôi (1847), ông đến cửa khuyết chiêm bái. Vua khen là khỏe mạnh, dụ rằng nhớ ơn ông dạy bảo, nên ban cho 100 lạng bạc, 20 tấm lụa.
Năm Tự Đức thứ 5 (1852), nhà vua lại dụ rằng: “Văn Diễn đã trải thờ 3 triều, từng làm quan trong ngoài, hơn 40 năm, tự giữ thanh bạch, trước sau như một, nhà không có của chứa riêng, tường vách sơ sài, sang mà hay nghèo, già mà không biến đổi, nói về thói trong sạch, tiết gian khổ càng khiến cho người hâm mộ khen ngợi. Chuẩn cho 8 mẫu ruộng để làm thế nghiệp và chi 100 quan tiền ở kho ra thưởng cấp, để làm của chi phí làm lại nhà”.
Khi Hoàng Văn Diễn qua đời năm 1854, phủ Thừa Thiên tâu lên, vua cho là bề tôi cũ già cả học thức, chuẩn cho chiểu theo phẩm trật cấp tiền tuất, lại cấp thêm cho gấm Trung Quốc, vải lụa và tiền, sai quan đến tế một đàn và chuẩn cho đưa vào thờ ở đền Hiền Lương.
Bùi Phổ
Bùi Phổ, theo “Đại Nam liệt truyện”, hiệu là Mão Hiên, người huyện Thanh Trì, Hà Nội, là cháu đời thứ 8 của tiến sĩ Bùi Xương Trạch nổi tiếng thời Lê. Theo sách này mô tả: “Phổ tư trời thông minh đĩnh ngộ”, nhưng cách xuất thân làm quan của ông không theo con đường thi cử.
Nguyên là đầu triều Vua Gia Long, nhà vua xuống chiếu cho các sĩ thứ dâng phong thư gắn kín tâu việc, sai quan xét duyệt bổ dụng. Bùi Phổ ở trong hạng trúng tuyển, được bổ làm Tri huyện Nghi Dương (sau đổi là Kiến Thụy, Hải Phòng), làm việc không xảy ra sự gì, lại có công mộ binh dõng đánh giặc biển, nên được thăng làm Tri phủ 2 phủ Kinh Môn và phủ Thái Bình. Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), ông được triệu về triều, bổ làm Thiêm sự Bộ Hộ.
Năm 1821, ông làm Ký lục doanh Quảng Trị, gặp năm đói, vua sai bán thóc kho ra 1 vạn hộc, do dân đến mua đông quá nên thóc phát ra quá ngoài số đã định. Sự việc được giao xuống Bộ Hình bàn tội, ông bị mất chức, phái đến đài Điện Hải ở Quảng Nam để lập công chuộc tội, rồi được khởi phục làm Tư vụ Bộ Hình. Sau khi được phái đi coi việc sửa sông Vĩnh Điện, công việc đã làm xong, ông được trả lại quan chức cũ, cho làm Thiêm sự Bộ Hình.
Do ông được Trịnh Hoài Đức đem tên bảo cử lên, nên được bổ làm Thiêm sự tào Hình thành Gia Định, rồi chuyển sang tào Binh, sau thăng lên làm Hiệp lý trấn Phiên An rồi thăng mãi đến Hữu Thị lang Bộ Binh, biện lý công việc tào Binh. Do bị bệnh, ông xin cáo quan về nghỉ. Đến năm 1828, Vua Minh Mạng truyền chỉ triệu ông về Kinh. Khi vào yết kiến, vua úy lạo, xuống chiếu cho lấy bản hàm tham biện việc của bộ, chuẩn cho dự đình nghị, vào ứng trực hầu vua.
Năm 1830, ông được sung chức hiệu chỉnh luật lệ, rồi chuyển sang Bộ Hình kiêm tự Đại lý, lại sung chức Toản tu bộ “Đại Nam Thực lục chính biên”, thường được vua triệu vào Nội điện, cho uống nước trà thong thả hỏi han.
Năm 1835, Bùi Phổ được thăng chức Thự Thượng thư Bộ Hình. Do ông có bệnh phổi, nên năm sau dâng sớ trình bày bệnh tình xin về hưu. Vua bảo rằng: “Phổ làm công việc đã lâu, hơn 30 năm, vốn tỏ ra người trong sạch, siêng năng, chuẩn cho lấy nguyên hàm hưu trí”; lại ban thưởng cho rất hậu; cho phép tùy ý dùng mũ đại triều để tỏ ra yêu quý hậu đãi bậc đại thần.
Bùi Phổ tạ ơn về nhà rồi chết, thọ 61 tuổi. Vua xuống dụ thương xót, sai cấp cho hậu để sửa việc tang. Sử triều Nguyễn đánh giá: “Phổ gặp gỡ thời thịnh, lấy thanh cần một tiết, trước sau được vua quý mến hậu đãi”. Năm Tự Đức thứ 11 (1858), ông cũng đưa vào thờ ở đền Hiền Lương, như Tôn Thất Lương và Hoàng Văn Diễn.