Triển khai bình dân học vụ số: Nền tảng cho kỷ nguyên mới

'Bình dân học vụ số' do Tổng Bí thư Tô Lâm khởi xướng như yếu tố quan trọng nhằm nâng cao dân trí, tạo nền tảng để bắt đầu kỷ nguyên mới...

Cô, trò Trường THCS - THPT Ban Mai (Hà Nội) trong giờ Tin học. Ảnh: NTCC

Cô, trò Trường THCS - THPT Ban Mai (Hà Nội) trong giờ Tin học. Ảnh: NTCC

Từ kinh nghiệm trên thế giới, PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) đưa ra các giải pháp triển khai hiệu quả nội dung này ở nước ta trong bối cảnh hiện nay.

Bài học quốc tế

- Theo ông, chúng ta có thể học tập được kinh nghiệm từ các quốc gia nào để triển khai bình dân học vụ số?

- Trong bối cảnh thế giới bước vào kỷ nguyên số hóa mạnh mẽ, các quốc gia trên toàn cầu đã và đang triển khai nhiều chiến lược sáng tạo nhằm thúc đẩy năng lực số cho mọi tầng lớp dân cư. Những chiến lược này không chỉ giải quyết vấn đề xóa mù số mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, triển khai bình dân học vụ số đòi hỏi cách tiếp cận toàn diện, kết hợp chính sách đúng đắn, nội dung đào tạo phù hợp và phương thức triển khai hiệu quả, với sự tham gia của nhiều bên liên quan.

Tại Ấn Độ, Chương trình Digital India, bắt đầu từ năm 2015, trở thành một trong những sáng kiến nổi bật để thúc đẩy bình dân học vụ số. Trong chương trình này, nổi bật là sáng kiến Pradhan Mantri Gramin Digital Saksharta Abhiyan, triển khai từ 2017, đào tạo kỹ năng số cơ bản cho người dân nông thôn. Với hơn 40 triệu người được đào tạo, hơn 250.000 trung tâm được thành lập, chương trình đóng vai trò quan trọng đưa công nghệ số đến các vùng sâu, xa.

Tại Brazil, Chương trình Computers for All, được triển khai từ 2005, tập trung vào cung cấp máy tính, phần mềm giá rẻ cho hộ gia đình thu nhập thấp. Đến 2015, hơn 3 triệu máy tính được phân phối, góp phần giảm thiểu đáng kể khoảng cách công nghệ tại quốc gia này.

Nam Phi cũng thực hiện thành công chiến lược xóa mù số thông qua việc thành lập hơn 200 trung tâm viễn thông từ 2010; cung cấp miễn phí hoặc chi phí thấp các khóa đào tạo kỹ năng số cơ bản, đặc biệt nhắm vào nhóm dân số vùng sâu, xa. Đến 2020, hơn 1,5 triệu người được đào tạo thông qua các trung tâm này. Tại Kenya, từ 2016 cũng triển khai Chương trình Giáo dục số, trang bị máy tính bảng được cài đặt sẵn tài liệu học tập cho hơn 1,2 triệu học sinh tiểu học khu vực khó khăn.

Tại Phần Lan, từ 2016, kỹ năng số được tích hợp vào chương trình học cấp tiểu học. Với trọng tâm là phát triển tư duy phản biện, kỹ năng giải quyết vấn đề thông qua công nghệ, Phần Lan đạt tỷ lệ 95% học sinh từ 7 - 15 tuổi được đào tạo kỹ năng số cơ bản vào 2021.

Estonia, một trong những quốc gia tiên phong trong Chính phủ số, đã lồng ghép nội dung lập trình, an toàn Internet vào các cấp học phổ thông từ 2014. Nhờ đó, đến 2020, hơn 90% dân số Estonia có năng lực số cơ bản, trở thành một trong những quốc gia có tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao nhất thế giới.

Đối với các nền tảng trực tuyến, Hoa Kỳ đã tận dụng sức mạnh của công cụ giáo dục như Khan Academy và Coursera để cung cấp khóa học kỹ năng số miễn phí. Trong giai đoạn từ 2018 đến 2021, hàng triệu người tham gia các khóa học này, bao gồm cả người lao động không thể tham dự lớp học truyền thống. Tại Úc, nền tảng Be Connected, được Chính phủ triển khai từ 2017, tập trung hỗ trợ người cao tuổi tiếp cận kỹ năng số.

Ngoài các sáng kiến trực tuyến, Colombia và Indonesia còn đưa ra các giải pháp ngoại tuyến sáng tạo. Colombia, thông qua chương trình Vive Digital từ năm 2011, mở hơn 800 trung tâm đào tạo tại các khu vực khó khăn, giúp hơn 3,2 triệu người dân tiếp cận kỹ năng số.

Indonesia, từ 2016, triển khai Chương trình Desa Pintar với các đơn vị đào tạo di động mang kỹ năng số đến những ngôi làng xa xôi, phục vụ hơn 500.000 người dân trong giai đoạn đầu triển khai.

Kinh nghiệm từ các quốc gia trên cho thấy, bình dân học vụ số không chỉ là chương trình giáo dục mà còn là một phần trong chiến lược phát triển toàn diện của mỗi quốc gia.

Từ phát triển chương trình giảng dạy phù hợp với từng đối tượng, bản địa hóa nội dung, đến tận dụng công nghệ và hợp tác công tư, các sáng kiến này đều hướng đến mục tiêu cuối cùng là xây dựng xã hội văn minh, công bằng, bền vững. Việt Nam có thể học hỏi từ những mô hình thành công này để phát triển một chiến lược bình dân học vụ số phù hợp, góp phần nâng cao năng lực số toàn dân và thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên số hóa.

 PGS.TS Trần Thành Nam. Ảnh: NVCC

PGS.TS Trần Thành Nam. Ảnh: NVCC

Rõ mục tiêu, đối tượng

- Trong bối cảnh Việt Nam, chúng ta nên đặt mục tiêu thế nào, hướng đến đối tượng ra sao khi triển khai bình dân học vụ số?

- Mục tiêu của chương trình này không chỉ nhằm nâng cao kỹ năng số mà còn tạo nền tảng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa trong thời đại số hóa, cụ thể như sau: Phổ cập năng lực số cơ bản; thu hẹp khoảng cách số; nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ tiên tiến; thúc đẩy văn hóa học tập suốt đời; đóng góp vào chiến lược quốc gia.

Để đạt được hiệu quả cao nhất, bình dân học vụ số cần tập trung vào các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội (người dân vùng sâu, xa; người lao động phổ thông, cao tuổi; học sinh, sinh viên; người khuyết tật; doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ). Mỗi nhóm có những đặc thù riêng, đòi hỏi cách tiếp cận, hỗ trợ phù hợp.

- Theo ông, để hiện thực hóa các mục tiêu của bình dân học vụ số, nội dung cần được thiết kế như thế nào?

- Để hiện thực hóa các mục tiêu của bình dân học vụ số, các nội dung cần được thiết kế khoa học, toàn diện, phù hợp với đặc điểm của từng nhóm. Các nội dung được chia thành các trụ cột chính.

Thứ nhất là kỹ năng số cơ bản, nền tảng để mọi người dân có thể tham gia hiệu quả vào không gian số gồm: Hiểu biết và vận hành thiết bị công nghệ; kết nối và sử dụng mạng Internet; quản lý dữ liệu cá nhân; giao tiếp và hợp tác trực tuyến; an toàn và bảo mật số.

Thứ hai, sử dụng dịch vụ số của Chính phủ, như Cổng dịch vụ công quốc gia; thanh toán không dùng tiền mặt; dịch vụ y tế và bảo hiểm số; tra cứu thông tin pháp luật và chính sách.

Thứ ba, trang bị cho người dân các kiến thức, kỹ năng cần thiết để bảo vệ bản thân và gia đình khi sử dụng công nghệ, như: Bảo mật thông tin cá nhân; ứng xử văn minh trên không gian mạng; nhận diện thông tin sai lệch.

Thứ tư, bình dân học vụ số cần hướng tới xây dựng ý thức và trách nhiệm của người dân khi tham gia vào môi trường số, đồng thời phát triển các kỹ năng tư duy quan trọng, như: Quyền và nghĩa vụ của công dân số; phát triển tư duy phản biện.

Thứ năm, bình dân học vụ số cần trang bị cho người dân kiến thức về các công nghệ tiên tiến, như: Trí tuệ nhân tạo (AI); quản lý và cộng tác trực tuyến.

Thứ sáu, chương trình cần khuyến khích tinh thần học tập không ngừng nghỉ, giúp người dân chủ động cập nhật và trau dồi kỹ năng qua khai thác tài nguyên học tập trực tuyến và thúc đẩy cộng đồng học tập.

Thứ bảy, nội dung cần được cá nhân hóa để phù hợp với từng nhóm cụ thể trong xã hội. Nội dung học tập theo nhu cầu đặc thù có thể được phân chia theo bậc từ cơ bản, trung cấp đến nâng cao và chuyên sâu.

 Trường THPT Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long) tích hợp nội dung về chuyển đổi số trong một số môn học.

Trường THPT Võ Văn Kiệt (Vĩnh Long) tích hợp nội dung về chuyển đổi số trong một số môn học.

Tối ưu hóa nguồn lực là yếu tố then chốt

- Vậy đâu là yếu tố then chốt để thực hiện thành công bình dân học vụ số?

- Huy động, tối ưu hóa các nguồn lực chính là yếu tố then chốt. Các nguồn lực cần thiết được xác định và phối hợp toàn diện, bao gồm: Nguồn lực tài chính; con người; hạ tầng công nghệ; chính sách và khung pháp lý; sự tham gia của các bên liên quan; quản lý và giám sát.

Theo đó, nguồn lực tài chính gồm đầu tư từ ngân sách Nhà nước; hợp tác công - tư và các quỹ hỗ trợ cộng đồng. Nguồn lực con người, trước hết cần xây dựng đội ngũ giảng dạy có trình độ chuyên môn về công nghệ thông tin, kỹ năng số và đội ngũ tình nguyện viên có thể đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn người học, đặc biệt tại các khu vực thiếu nguồn lực.

Cùng với đó, huy động sự tham gia của các chuyên gia công nghệ để thiết kế nội dung đào tạo phù hợp, tư vấn chiến lược triển khai, hỗ trợ kỹ thuật trong quá trình thực hiện. Tận dụng lực lượng cán bộ, hội phụ nữ và các tổ chức đoàn thể để vận động, tổ chức và điều phối chương trình tại địa phương. Về hạ tầng công nghệ, cần phát triển mạng lưới Internet; cung cấp thiết bị công nghệ và nền tảng học tập trực tuyến.

Về chính sách và khung pháp lý, Chính phủ cần xây dựng các chính sách khuyến khích học tập kỹ năng số, giảm thiểu các rào cản pháp lý đối với việc triển khai dịch vụ công trực tuyến và giáo dục số.

Thiết kế chương trình đặc thù dành riêng cho khu vực thiếu cơ hội tiếp cận công nghệ, bao gồm hỗ trợ tài chính, miễn giảm học phí và trợ cấp thiết bị học tập. Xây dựng chiến lược quốc gia về phổ cập năng lực số, tích hợp các mục tiêu bình dân học vụ số vào kế hoạch chuyển đổi số quốc gia.

Huy động sự tham gia của các bên liên quan như doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, người dân và cộng đồng. Về quản lý và giám sát, cần có hệ thống đánh giá hiệu quả, ứng dụng công nghệ quản lý và đánh giá định kỳ để điều chỉnh nội dung, phương thức tổ chức phù hợp với nhu cầu thực tế.

- Vậy trường đại học có vai trò thế nào trong hỗ trợ thực hiện phong trào bình dân học vụ số?

- Trường đại học trước hết cung cấp nguồn lực chuyên môn như xây dựng khung năng lực số theo các nhóm đối tượng, cấp độ gắn với thực tiễn cuộc sống. Huy động đội ngũ giảng viên, sinh viên tham gia thiết kế nội dung đào tạo, giảng dạy kỹ năng số và đảm nhận vai trò tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật cho các chương trình đào tạo tại cộng đồng.

Trường đại học cũng đảm nhiệm vai trò nghiên cứu tích hợp các khung năng lực số và AI theo từng cấp độ phù hợp với đối tượng, xu hướng phát triển của công nghệ; thực hiện nghiên cứu về nhu cầu học tập kỹ năng số và hiệu quả của các mô hình giáo dục công nghệ; phát triển phương pháp giảng dạy sáng tạo, kết hợp giữa lý thuyết và thực hành để phù hợp với đối tượng học viên đa dạng. Đồng thời, tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn, hội thảo chuyên đề nhằm nâng cao năng lực số cho cộng đồng; hợp tác với địa phương để thiết lập các trung tâm học tập kỹ năng số.

Cũng có thể phát huy vai trò trường đại học như một trung tâm học tập cộng đồng, cung cấp không gian, cơ sở vật chất cho các lớp học kỹ năng số. Đồng thời, kết nối với doanh nghiệp công nghệ để cung cấp thiết bị, phần mềm học tập, tài trợ cho các lớp học kỹ năng số; biên soạn tài liệu, hướng dẫn kỹ năng số phù hợp với từng đối tượng trong xã hội…

- Xin cảm ơn ông!

Để phong trào “Bình dân học vụ số” diễn ra hiệu quả và bền vững cần xác định rõ phương thức thực hiện, xây dựng kế hoạch tổ chức phong trào đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế. Chương trình nên được chia thành các giai đoạn, có lộ trình, đặt ra từng mốc thời gian cụ thể, bao gồm giai đoạn chuẩn bị và giai đoạn triển khai thực hiện. - PGS.TS Trần Thành Nam

Hiếu Minh (Thực hiện)

Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/trien-khai-binh-dan-hoc-vu-so-nen-tang-cho-ky-nguyen-moi-post717341.html
Zalo