Tinh hoa thêu tay Minh Lãng
Giữa dòng chảy thời gian và sự thay đổi không ngừng của xã hội, nghề thêu tay Minh Lãng, với những tinh hoa và kỹ thuật truyền thống, vẫn kiên trì tồn tại và phát triển, giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc qua từng đường kim, mũi chỉ.
Trong căn gác nhỏ hẹp, ánh đèn neon làm bừng sáng không gian chỉ hơn chục mét vuông, những cuộn chỉ đủ màu sắc ánh lên rực rỡ. Ba người phụ nữ, tuổi đã ngoài sáu mươi, người đã hằn những nếp nhăn trên mặt, người đã đeo kính lão, nhưng đôi tay vẫn thoăn thoắt đưa mũi kim lên xuống tấm vải trắng đục.
Họ miệt mài thêu từng đường nét và phải rất lâu sau một mảng màu nhỏ xinh mới dần hiện ra từ những mũi kim tỉ mỉ. “Chúng tôi đang thêu bức tranh con công đậu trên cây cổ thụ cạnh thác nước”, bà Lan, một trong ba người phụ nữ, giải thích, ánh mắt hướng về bức vải khổ lớn treo trên tường với những nét phác họa mờ nhạt hình con công và cây cổ thụ.
Khi bà Lan nhẹ nhàng xoay khung thêu, chiếc đuôi chim công rực rỡ sắc màu hiện ra trên tấm vải, khiến chúng tôi không khỏi trầm trồ. Thấy sự ngạc nhiên của chúng tôi trước việc từ vài nét phác họa bằng mực có thể tạo nên đuôi chim công đầy màu sắc, bà Lan mỉm cười: “Chúng tôi chỉ thêu những mẫu đơn giản thôi. Ở đây, chị em không thể khéo tay bằng ông Bính.”
Người nghệ nhân “vẽ tranh bằng chỉ”
Người đàn ông mà bà Lan nhắc đến là nghệ nhân Nguyễn Cao Bính, chủ nhân của cơ sở thêu nơi bà Lan làm việc. Trong giới thêu ở xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, ông Bính được biết đến với tài năng xuất chúng, được ca ngợi như nghệ nhân “vẽ tranh bằng chỉ”.
Ông Bính bảo, đây là bức tranh lớn nhất từ trước đến nay mà ông thực hiện theo đơn đặt hàng của một chủ khách sạn ở Ninh Bình. Khách hàng chỉ nêu ý tưởng còn phác họa bức tranh thế nào là do ông, chứ không dựa trên một bức tranh hay bức ảnh cụ thể nào.
Và cũng như mối nhân duyên, những gì ông hình dung lại rất hợp gu với khách hàng. “Chắc phải mất vài tháng nữa mới thêu xong bức này”, ông Bính cho biết, tay thoăn thoắt mũi kim thêu tiếp mảng màu bà Lan đang thêu dở, khi được chúng tôi yêu cầu ông “biểu diễn” độ khéo léo.
Bức tranh lớn, mấy người cùng thêu cũng phải mất cả năm mới xong, màu sắc biến chuyển theo khung cảnh thiên nhiên, nhất là việc thêu con công với bộ lông sặc sỡ đòi hỏi đôi bàn tay thật khéo léo. Tuy nhiên, “bức này không khó lắm”, ông Bính mỉm cười. “Khó nhất vẫn là thêu chân dung.”
Cái khó, đồng thời cũng là giá trị đặc biệt của tranh thêu chân dung, nằm ở khâu phối màu tinh tế và kỹ thuật “điểm nhãn”. Từ một bức ảnh mẫu của khách hàng, nghệ nhân phải tỉ mỉ phác thảo lại bằng bút chì trên khung vải, sau đó khéo léo sử dụng các loại chỉ màu để tái hiện từng đường nét hài hòa, bám sát màu sắc nguyên bản.
Nếu việc thêu lá cây, bông hoa hay cánh chim trong khu vườn đã đòi hỏi sự khéo léo đáng kể, thì truyền tải “thần thái” qua ánh mắt của một bức chân dung lại là thử thách gấp bội lần.
Trong lĩnh vực này, nghệ nhân Nguyễn Cao Bính được xem như một bậc thầy với tài năng thiên bẩm và danh tiếng lẫy lừng. “Ở đây, người khéo tay thì nhiều, kinh nghiệm cũng không thiếu, nhưng thêu chân dung thì chỉ có tớ”, ông Bính hài hước chia sẻ, ánh lên niềm tự hào.
Thành công đầu tiên của ông là bức thêu đen trắng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, lấy cảm hứng từ một bức ảnh chụp tình cờ ông thấy trên báo. Kể từ đó, tên tuổi của ông vượt ra khỏi tỉnh Thái Bình, chinh phục cả những thị trường khó tính như Hàn Quốc và Nhật Bản nhờ các tác phẩm sống động, tinh xảo và giàu cảm xúc.
Bắt đầu theo nghề từ năm 10 tuổi, nay khi đã ngoài 70, ông Bính vẫn gắn bó trọn vẹn với nghề thêu tay truyền thống tại làng Minh Lãng, mang theo niềm đam mê cháy bỏng và lòng tự hào sâu sắc.
Với giọng kể đầy cảm hứng, ông chia sẻ rằng mình đã thực hiện 76 bức thêu chân dung nghệ thuật, trong đó nổi bật là các tác phẩm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhiều nhân vật lịch sử quan trọng khác. Những bức tranh không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, mà còn là lời tri ân chân thành gửi đến lịch sử và con người Việt Nam.
Nghề thêu tay vốn dĩ đòi hỏi những tố chất cơ bản như sự kiên trì, tỉ mỉ và chính xác. Tuy nhiên, để khẳng định tay nghề và “sống tốt bằng nghề,” năng khiếu là yếu tố không thể thiếu. Để hoàn thành một bức chân dung, trung bình một nghệ nhân cần khoảng bốn tháng làm việc miệt mài.
Trong khi đó, công nghệ thêu máy, dù hướng tới sản xuất công nghiệp với hàng nghìn sản phẩm trong thời gian ngắn, lại khó tạo ra sự tinh tế. Các sản phẩm này thường bị đánh giá là “thiếu hồn” và không đạt được độ hoàn thiện như thêu tay. Chỉ có đôi bàn tay tài hoa mới có thể làm nên những bức tranh lớn, đẹp, đầy cảm xúc và màu sắc gần với nguyên bản.
Chỉ vào bức thêu chân dung bà Victoria Kwakwa, cựu Giám đốc quốc gia World Bank tại Việt Nam, ông Bính chia sẻ: “Màu sắc là một trong những thách thức lớn nhất của nghề thêu. Màu trên ảnh chụp hay tranh vẽ luôn rực rỡ hơn so với màu được tái hiện bằng chỉ thêu trên cùng một mẫu.”
Như để minh chứng cho sự tinh tế của tranh thêu tay, ông Bính nhắc lại một nguyên tắc mà mọi nghệ nhân đều thuộc nằm lòng: “Tranh nhìn xa - hoa nhìn gần.” Theo ông, khi đứng cách xa bức tranh khoảng 2-3 mét, khó ai có thể nhận ra đây là tác phẩm thêu mà thường nhầm tưởng là tranh vẽ, thậm chí phải thốt lên: “Đẹp như tranh vẽ.”
Dẫu biết rằng không thể đạt đến sự hoàn hảo tuyệt đối về màu sắc như yêu cầu của ảnh chụp hay tranh vẽ, nhưng tranh thêu tay lại có ưu thế riêng khi tái hiện màu sắc gần gũi và chân thực hơn với thực tế.
Chinh phục những khách hàng kỹ tính
Không nổi danh về thêu tranh chân dung như ông Bính, nhưng ông Hoàng Đình Chiêm, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Tuấn Dương, lại có những biệt tài riêng, đủ sức chinh phục những khách hàng khó tính nhất đến từ Nhật Bản và Hàn Quốc.
Trong câu chuyện với chúng tôi, ông tự hào khoe bức ảnh chụp tại một lễ hội cổ truyền ở Nhật Bản, nơi bức tranh thêu mô tả mùa màng bội thu với hoa quả, chim chóc và các con giống được người dân Nhật trân trọng như báu vật. Tác phẩm này mất hơn một năm để hoàn thành, nhưng giá trị thì hoàn toàn xứng đáng với công sức bỏ ra, với mức giá hơn 80.000 USD.
Tuy nhiên, để giành được niềm tin từ phía khách hàng Nhật Bản và được giao thêu bức tranh này không phải dễ dàng. Như ông Chiêm chia sẻ: “Người Nhật kỹ tính lắm!” Câu chuyện bắt đầu khi bức tranh cũ - một tác phẩm thêu có tuổi đời hàng trăm năm - bị hư hỏng và họ quyết định sang Việt Nam tìm người tái hiện lại.
Khi gặp ông Chiêm, họ đã đặt ra một thử thách gần như bất khả thi: thêu lại bức tranh với những bông hoa nhỏ li ti như hạt tấm và sau đó, ông không chỉ hoàn thành xuất sắc mà còn khiến họ kinh ngạc.
Thậm chí, để đảm bảo chất lượng, phía Nhật Bản còn mang chỉ thêu về giám định độ bền, kiểm tra khả năng giữ màu qua nhiều năm trước khi quyết định giao tác phẩm. Trong quá trình làm, họ quay video từng chi tiết, từ việc đếm số kim bị gãy đến lưu giữ chiếc đê đồng - một dụng cụ bảo vệ ngón tay - đã bị thủng trong quá trình thêu, coi đó như những tư liệu quý giá.
Khi bức tranh hoàn thành, họ không giấu nổi sự vui mừng, thậm chí còn nhờ ông tổ chức một bữa tiệc linh đình mời dân làng tham dự. Họ còn mời ông sang Nhật dự lễ hội truyền thống và bày tỏ lòng thành kính và khâm phục sự tinh xảo và tâm huyết của nghệ nhân Việt Nam.
Ông Chiêm còn nắm trong tay bí quyết độc đáo về nhuộm chỉ - yếu tố quyết định giá trị của mỗi tác phẩm thêu. “Tôi làm được màu chỉ, thích màu nào thì nhuộm ra màu đó”, ông Chiêm tự hào chia sẻ. Cách đây 24 năm, khi lần đầu đặt hàng, các khách hàng Hàn Quốc không giấu nổi sự ngạc nhiên và trân trọng tay nghề vượt trội của vị giám đốc này.
Ông Chiêm nhớ lại kỷ niệm đáng nhớ vào năm 2000, khi sản phẩm chỉ thêu của Công ty Tuấn Dương được chính các khách hàng Hàn Quốc kiểm tra độ phai màu, so sánh với dòng chỉ thêu của làng Vạn Phúc. “Họ đặt hai cuộn chỉ cùng màu vào hai chiếc cốc thủy tinh trong suốt rồi dội nước sôi. Một cốc nước chuyển màu đỏ đậm, trong khi cốc còn lại - sản phẩm của tôi - chỉ hơi ánh sắc hồng nhạt.”
Say sưa kể về kỹ nghệ nhuộm, ông Chiêm chia sẻ rằng thế hệ cha ông trước đây sử dụng sợi tơ tằm truyền thống còn thô và chưa tinh xảo như hiện nay, nhưng lại biết cách tận dụng các phụ phẩm tự nhiên như củ nâu, bùn, lá bàng để nhuộm, giúp giữ màu chỉ bền đẹp theo thời gian.
Tùy thuộc vào từng loại sợi – tơ tằm, polyester hay cotton – mà kỹ thuật và nguyên liệu nhuộm cũng khác biệt hoàn toàn. “Không thể áp dụng một cách nhuộm chung cho tất cả. Mỗi loại sợi đòi hỏi một kỹ thuật riêng để đảm bảo màu sắc đạt độ hoàn hảo nhất”, ông Chiêm nhấn mạnh.
Thăng trầm những mũi kim
Tài năng của những người như ông Bính và ông Chiêm đã đưa sản phẩm thêu tay Minh Lãng không chỉ nổi tiếng khắp cả nước mà còn vươn xa tới thị trường quốc tế. Ra đời từ những năm đầu thế kỷ XIX, những sản phẩm đầu tiên của Minh Lãng chủ yếu phục vụ quan lại và chức sắc thời phong kiến với các sản phẩm xiêm y, mũ áo.
Theo ông Hoàng Đình Vương, Chủ tịch UBND xã Minh Lãng, nghề thêu nơi đây phát triển cực thịnh từ sau hòa bình lập lại đến cuối thập niên 1980. Lúc đó, cả xã như một đại công xưởng với hai hợp tác xã, quy tụ gần 2.500 lao động. Từ nam thanh nữ tú đến người cao niên đều cặm cụi bên khung thêu, tạo nên hàng trăm, hàng nghìn sản phẩm xuất khẩu sang châu Âu và các nước xã hội chủ nghĩa.
Dòng chảy hưng thịnh ấy bất ngờ chững lại khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, thị trường xuất khẩu chính biến mất. Người Minh Lãng, từng nổi danh với những “tay kim” khéo léo, đứng trước thách thức duy trì nghề truyền thống. Nhiều người vào Nam mở rộng thị trường, người khác ra nước ngoài học hỏi kỹ thuật và tìm đối tác mới.
Chỉ trong vài năm, đến giai đoạn 1994-1995, Minh Lãng hồi sinh với hàng chục cơ sở thêu quy mô nhỏ và sự xuất hiện của các doanh nghiệp tư nhân như Mỹ Long, Hoàng Hưng, Tuấn Dương.
Trong không gian ấm cúng trưng bày hàng trăm tác phẩm thêu tay, ông Bính - người duy nhất ở Minh Lãng được trao danh hiệu nghệ nhân cao quý - đưa chúng tôi qua từng thước phim lịch sử của nghề thêu.
Theo ông Bính, giai đoạn vàng son của Minh Lãng gắn liền với kháng chiến chống Pháp, khi các sản phẩm thêu tay được xuất khẩu ồ ạt sang Liên Xô, Hungary và Tiệp Khắc. Một trong những tác phẩm nổi bật nhất là bức tranh về chùa Keo - biểu tượng văn hóa địa phương - đã giúp khẳng định tài năng của người thợ Minh Lãng trước lãnh đạo tỉnh Thái Bình.
Bước sang những năm 2000, sản phẩm thêu Minh Lãng tiếp tục mở rộng sang các thị trường mới như Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản, bất chấp sự cạnh tranh từ công nghệ thêu máy. Ông Bính khẳng định: “Máy móc chỉ có thể thêu các mẫu đơn giản với giới hạn khoảng 10 màu chỉ, nhưng không thể thay thế bàn tay nghệ nhân trong việc tạo nên những tác phẩm phức tạp với vài chục, thậm chí cả trăm màu sắc.”
Là một trong những thợ nghề tiên phong ở Minh Lãng lập doanh nghiệp thêu tư nhân năm 1998, ông Chiêm đã góp phần đưa nghề thêu Minh Lãng vượt qua khó khăn và khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
Ông nhớ lại những ngày đầu vào TP. HCM để giới thiệu sản phẩm, đặc biệt là việc thuyết phục các đối tác Hàn Quốc. “Họ không tin ngoài Bắc lại có làng nghề thêu tay tinh xảo và sáng tạo như Minh Lãng. Tôi phải đưa họ về xã để chứng nhận nguồn gốc sản phẩm, thậm chí đóng dấu xác nhận do lúc đó công ty chưa có pháp nhân,” ông kể.
Những nỗ lực không ngừng nghỉ của những người như ông Bính và ông Chiêm đã gìn giữ mạch nghề truyền thống suốt hơn hai thế kỷ, biến Minh Lãng trở thành biểu tượng của sự sáng tạo và khéo léo, để mỗi mũi kim, mỗi sợi chỉ đều kể một câu chuyện về tinh hoa văn hóa Việt.
Tuy nhiên, sự thay đổi của thời thế đã đặt ra nhiều thách thức đối với việc duy trì và phát triển nghề thêu Minh Lãng. Ông Chiêm chia sẻ, hiện nay nhu cầu từ khách hàng nước ngoài ngày càng giảm, đặc biệt là các đối tác truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.
Khẩu vị tiêu dùng đã thay đổi, không còn ưa chuộng những sản phẩm cao cấp với giá thành đắt đỏ, mà thay vào đó là các mẫu đơn giản, thường được in bằng máy. Điều này khiến cho việc tìm đầu ra ngày càng khó khăn hơn.
Ví dụ, trước đây, khách hàng Nhật Bản luôn tìm đến Minh Lãng để đặt những mẫu thêu kimono tỉ mỉ, chi tiết, phục vụ cho các dịp lễ hội, sự kiện. Tuy nhiên, hiện nay, họ chỉ yêu cầu những mẫu thêu đơn giản, thậm chí là in màu. Tương tự, thị hiếu của khách Hàn Quốc cũng thay đổi.
Trước đây, họ đặt may và thêu các bộ hanbok riêng biệt, nhưng giờ đây, nhu cầu chủ yếu là thuê sẵn các bộ hanbok để sử dụng, chứ không còn tìm kiếm những sản phẩm thêu riêng nữa. Chính vì vậy, thay vì xuất khẩu, hiện nay Công ty Tuấn Dương phải chuyển hướng tập trung vào thị trường trong nước, với các sản phẩm thêu áo dài, tranh ảnh, nhằm duy trì thu nhập cho người lao động.
Trong thời kỳ hoàng kim, Công ty Tuấn Dương từng có hàng nghìn lao động, chủ yếu là người Minh Lãng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do sự sụt giảm nhu cầu hàng xuất khẩu, số lượng lao động đã giảm sút đáng kể và hiện chỉ còn vài chục người.
Chị Nguyễn Thị Nhuần, người được thừa hưởng nghề thêu từ ba đời trong gia đình, cũng là một ví dụ điển hình cho diễn biến trên. Vào năm 2010, chị đã làm chủ bốn xưởng thêu với gần 200 lao động, chuyên sản xuất các đơn hàng cho khách hàng Trung Quốc. Tuy nhiên, khi đơn hàng giảm sút và không còn ổn định, chị buộc phải chuyển đổi mô hình sang các cơ sở thêu tay quy mô nhỏ, với trung bình chỉ khoảng 10 tay kim.
Trăn trở gìn giữ nghề của cha ông
Đang nói sang sảng và ánh mắt đầy tự hào về nghề thêu Minh Lãng, ông Bính bỗng chùng xuống khi nhắc đến thế hệ kế cận, những người sẽ tiếp tục duy trì và phát triển nghề thêu truyền thống.
Ông ngậm ngùi, nhiều năm nay, thanh niên trong làng, trong xã không còn mặn mà với nghề thêu, một nghề đã nuôi sống và làm rạng danh bao thế hệ trước. “Cũng phải thôi, bởi thu nhập từ nghề thêu thấp hơn nhiều so với làm công ty, khu công nghiệp. Hơn nữa, đặc thù của nghề thêu là phải ngồi một chỗ, bó buộc chân tay, nên lớp trẻ ít ai muốn theo đuổi”, ông Bính chia sẻ.
Ông Chiêm bổ sung thêm rằng lớp trẻ tại địa phương hầu như không tiếp tục theo nghề sau khi học xong cấp 3. “Bởi lẽ, thu nhập từ nghề thêu thấp hơn so với công việc ở công ty, văn phòng. Nên giới trẻ chủ yếu học xong là tìm công việc khác, thay vì tiếp tục gắn bó với khung thêu và mũi kim,” ông nói.
Một vấn đề khác mà ông Chiêm nhấn mạnh là sự cạnh tranh nhân lực gay gắt từ các khu công nghiệp lân cận. Mức thu nhập trung bình của người lao động trong nghề thêu chỉ khoảng 4-5 triệu đồng mỗi tháng, khiến lớp trẻ khó có thể cưỡng lại sức hút từ công việc trong các doanh nghiệp khu công nghiệp. “Nếu cứ tiếp tục như vậy, không sớm có giải pháp từ chính quyền và các bộ ngành, nghề thêu tay có thể dần mai một, thậm chí mất hẳn”, ông lo lắng.
Theo ông Chiêm, chìa khóa để thu hút người lao động và đào tạo thế hệ kế thừa là cải thiện mức thu nhập. Nếu mức lương trong nghề thêu có thể đạt từ 8-10 triệu đồng mỗi tháng, thì chắc chắn nghề thêu Minh Lãng và các doanh nghiệp xuất khẩu như Công ty Tuấn Dương sẽ không lo thiếu lao động và có thể duy trì nghề truyền thống.
Hiện tại, tại cơ sở của chị Nguyễn Thị Nhuần, 10 tay kim đều là phụ nữ trung niên trở lên. Những người lao động này chủ yếu làm nghề thêu vào thời gian nông nhàn và có thể mang công việc về nhà để tranh thủ thời gian, đáp ứng yêu cầu giao hàng.
Tuy nhiên, nhiều cơ sở thêu nhỏ đối mặt với tình trạng thiếu lao động trầm trọng khi các khu công nghiệp, đặc biệt là các nhà máy may, thu hút hàng loạt lao động trẻ, với mức thu nhập cao hơn. Có những cơ sở mất gần 50 tay kim trong độ tuổi 25-30 vì họ chuyển sang làm công nhân để có thu nhập tốt hơn.
Việc duy trì và phát triển nghề thêu với thế hệ trẻ tại địa phương giờ đây càng khó khăn hơn. Mặc dù chị Nhuần, với vai trò là chủ cơ sở sản xuất, đã từng nỗ lực chi trả cho người lao động mức lương gần tương đương với các công ty trong khu vực, nhưng vẫn không đủ để giữ chân lao động trẻ.
Một trong những yêu cầu lớn mà giới trẻ đưa ra là được đóng bảo hiểm, điều này theo chị Nhuần là “bất khả thi” đối với khả năng tài chính của mình và không phù hợp với mô hình sản xuất nhỏ của cơ sở.
Dẫu vậy, mối lo về viễn cảnh nghề thêu tay dần mai một, thậm chí “thất truyền”, không thể lấn át được lửa nghề luôn thôi thúc trong tâm người nghệ nhân - khi ông Bính hé lộ kế hoạch của mình trong tương lai.
“Tôi khát khao thêu chân dung Hồ Chủ tịch từ lúc Bác ra đi tìm đường cứu nước tới khi qua đời. Và, dù chưa biết có đủ sức để thêu hay không, nhưng tôi vẫn nuôi ước mơ thực hiện được những tác phẩm về các nhân vật lịch sử mang tính biểu tượng cho sự đấu tranh, sẵn sàng hy sinh để mang lại độc lập tự do và ấm no của dân tộc”, ông Bính cho hay.