Tiếp tục hoàn thiện Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi)

Bên cạnh quy định đối tượng không chịu thuế, về thuế suất, về hiệu lực thi hành... đã thống nhất, Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) còn một số nội dung cần tiếp tục được cân nhắc.

Phiên họp chiều 10/3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phiên họp chiều 10/3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tiếp tục phiên họp thứ 43, chiều 10/3, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi).

Báo cáo tóm tắt các nội dung cơ bản, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội Phan Văn Mãi cho biết, nhiều nội dung liên quan đến quy định về đối tượng không chịu thuế, về thuế suất, về hiệu lực thi hành... đã được Thường trực Ủy ban và Cơ quan soạn thảo (Bộ Tài chính) thống nhất giải trình, tiếp thu.

Về một số nội dung còn ý kiến khác nhau, liên quan thuế suất và mức thuế, đối với nước giải khát có đường, ông Mãi phản ánh, quá trình thảo luận, một số ý kiến đề nghị cân nhắc mức thuế cao hơn. Một số ý kiến đề nghị cần có lộ trình để doanh nghiệp điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Thường trực Ủy ban thẩm tra cho rằng, nước giải khát có đường là mặt hàng mới được đề xuất bổ sung vào đối tượng chịu thuế, việc quy định thuế suất ở mức hợp lý là để từng bước hạn chế việc sử dụng các sản phẩm có hàm lượng đường cao, khuyến khích doanh nghiệp sản xuất các loại nước giải khát có hàm lượng đường thấp.

Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu, Thường trực cơ quan thẩm tra đề nghị cân nhắc phương án lùi thời điểm áp thuế đối với sản phẩm này khoảng 1-2 năm so với thời hạn dự kiến trong Dự thảo Luật hoặc áp dụng theo lộ trình. Phương án này vẫn bảo đảm thực hiện được mục tiêu chính sách song có linh hoạt hơn để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh, ông Mãi giải thích.

Cơ quan soạn thảo xin giữ như Dự thảo Luật vì cho rằng, đây là mặt hàng mới được đề xuất bổ sung vào đối tượng chịu thuế, việc quy định thuế suất 10% là hợp lý nhằm khuyến khích doanh nghiệp sản xuất nước giải khát có hàm lượng đường thấp, cũng như nâng cao nhận thức của người tiêu dùng. Sau thời gian thực hiện sẽ tổng kết và nghiên cứu đề xuất phù hợp thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, Chủ nhiệm Phan Văn Mãi cho hay.

Đối với xe ô tô pick-up chở hàng, quá trình thảo luận, một số ý kiến đề nghị cân nhắc lộ trình và mức tăng phù hợp; cân nhắc, làm rõ căn cứ đề xuất mức thuế bằng 60% đối với xe ô tô thông thường…

Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính cho rằng, theo quy định hiện hành, chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dòng xe này đã được ưu đãi hơn nhiều so với các loại xe ô tô khác. Tuy nhiên, đây là loại xe có niên hạn sử dụng 25 năm, nếu áp dụng mức thuế thuế tiêu thụ đặc biệt như Dự thảo Luật có thể ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, đề nghị tiếp thu ý kiến đại biểu, cân nhắc phương án lùi thời điểm áp thuế 1-2 năm so với thời hạn dự kiến trong Dự thảo Luật hoặc áp dụng theo lộ trình để doanh nghiệp có thời gian điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kinh doanh.

Trong khi đó, Cơ quan soạn thảo cho rằng, xe pick-up chở hàng cabin kép có khối lượng hàng chuyên chở cho phép tham gia giao thông dưới 950 kg được xem là xe con và được tham gia giao thông, lưu thông trong đô thị về thời gian và trên các làn đường tương tự như xe ô tô chở người từ 9 chỗ ngồi trở xuống. Đồng thời, theo quy định hiện hành về phí, lệ phí, mức thu lệ phí trước bạ lần đầu đối với ô tô pick-up chở hàng cabin kép bằng 60% mức thu lệ phí trước bạ lần đầu đối với xe ô tô chở người từ 09 chỗ ngồi trở xuống.

Để góp phần bảo đảm việc sử dụng xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng theo đúng mục tiêu thiết kế, hạn chế ùn tắc giao thông, tránh lợi dụng chính sách và bảo đảm công bằng, thống nhất, đồng bộ giữa các quy định về chính sách thuế và phí, lệ phí, Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như Dự thảo Luật.

Về thuế suất đối với xe ô tô hybrid, ông Mãi cho hay, có ý kiến đề nghị không phân biệt đối xử về thuế suất ưu đãi giữa xe hybrid và xe có hệ thống sạc điện riêng. Có ý kiến đề nghị thuế suất đối với dòng xe có sạc ngoài từ 70% xuống còn 50% so với dòng xe động cơ đốt trong,…

Ông Mãi báo cáo, Luật hiện hành quy định một mức thuế suất ưu đãi để áp dụng chung cho cả xe sạc trong và sạc ngoài. Thực tế áp dụng không phát sinh vướng mắc. Vì vậy, Thường trực Ủy ban thẩm tra đề nghị chỉnh lý Dự thảo Luật theo hướng giữ như quy định của Luật hiện hành để tránh gây khó khăn cho doanh nghiệp. Theo đó, quy định ưu đãi thuế đối với xe chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện nếu đáp ứng điều kiện tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng.

Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như Dự thảo Luật vì cho rằng, xe chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện loại không có hệ thống sạc điện riêng (HEV) là loại xe chạy bằng xăng ảnh hưởng đến môi trường, không phải là xe “chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện”, nên không thuộc diện áp dụng mức thuế suất ưu đãi.

Thường trực Ủy ban Kinh tế và Tài chính tiếp tục phối hợp với Cơ quan soạn thảo để làm rõ về các quy định hiện hành đang được áp dụng trên thực tế đối với các loại xe chạy xăng kết hợp năng lượng điện, có hệ thống sạc điện riêng và không có hệ thống xạc điện riêng, làm rõ mục tiêu chính sách để cùng xác định phương án hoàn thiện dự thảo Luật, ông Mãi nêu rõ.

Ngoài ra, theo ông Mãi, có ý kiến đề nghị Chính phủ cần có quan điểm rõ ràng về việc cho phép hay không cho phép nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh thuốc lá thế hệ mới để quy định trong Dự thảo Luật.

Ông Mãi giải thích, Nghị quyết số 173/2024/QH15 của Quốc hội quy định về việc cấm sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, chứa chấp, vận chuyển, sử dụng thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng… Do đó, tiếp thu ý kiến đại biểu, Thường trực Ủy ban thẩm tra đề nghị bỏ nội dung Điều 12 dự thảo Luật.

Cơ quan soạn thảo đề nghị giữ như Dự thảo Luật để bảo đảm xác lập căn cứ pháp lý đầy đủ để có thể triển khai thực hiện trong trường hợp đặc biệt sản phẩm thuốc lá mới được phép nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh, ông Mãi báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Nguyễn Lê

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/tiep-tuc-hoan-thien-luat-thue-tieu-thu-dac-biet-sua-doi-d251769.html
Zalo