Tiếng Việt giàu đẹp: Phải duyên, phải gió, phải lời…
Trong 'Truyện Kiều', ta thấy từ 'phải' được sử dụng cả thảy 57 lần.
Một trong những đoạn hay nhất của "Truyện Kiều" khiến người đọc hả lòng hả dạ là lúc Thúy Kiều báo ân báo oán. Khi xử Hoạn Thư, nghe lời tự bào chữa của bị cáo, Thúy Kiều thốt lên: "Khen cho thật đã nên rằng:/ Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời". Lạ nhỉ, sao lại khen một người đã từng hành hạ mình: "Làm cho, cho mệt, cho mê/ Làm cho đau đớn, ê chề cho coi"? Sở dĩ khen bởi lời bào chữa của Hoạn Thư nói năng "phải lời", là nói "đúng lời", hợp lẽ phải, không dễ bắt bẻ, vì thế phải khen là vậy.

Phải duyên, phải gió, phải lời… (Ảnh minh họa từ Internet)
Từ "phải" theo nghĩa là đúng, ta còn gặp trong câu tục ngữ "Buôn phải chầu, câu phải chỗ". Chầu ở đây có nghĩa là buổi, là dịp; hiểu như thế, ta mới rõ nghĩa của từ chầu đã xuất hiện trong thơ Lục Vân Tiên: "Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu/ Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên".
Trong "Truyện Kiều", còn có câu có từ "phải": "Nàng rằng phải bước lưu ly/ Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh", "Buồng the phải buổi thong dong/ Thang lan rũ bức trướng hồng tẩm hoa ", "Những là nương náu qua thì/ Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia"… nhưng không hiểu là đúng mà ở đây là được, gặp, bị mắc phải.
Ta còn gặp từ "phải" trong nhiều câu cửa miệng nhưng cũng chắc gì được hiểu theo nghĩa là đúng. Thí dụ, một người bảo: "Không biết X ăn phải đũa ai mà nói năng ba trợn quá" - phải ở đây lại hiểu là nhầm/ nhầm đũa. Thành ngữ này ám chỉ ai đó nhiễm thói xấu của người khác. "Từ điển Việt-Bồ-La" (1651) giải thích trường hợp bắn bia chính xác là "phải bia" nhưng nay ta gọi "trúng bia"; bị "phải gió", nay ta nói "trúng gió". Từ "phải gió" nay hầu như hiểu theo nghĩa là lời mắng rủa nhẹ nhàng, thậm chí còn có chút bông lơn nữa, thí dụ: "Hôm qua lên núi hái chè/ Gặp thằng phải gió nó đè em ra" không phải là lời "tố cáo" vạch mặt chỉ tên gay gắt; tùy ngữ cảnh, có khi còn là câu "mắng yêu".
Một khi đứng đầu câu, từ "phải" có nhiệm vụ nêu lên một giả thiết, với giả thiết ấy thì có cái gì sẽ xảy ra so với điều đã xảy ra trong thực tế. Cách nói/ viết như thế này, "Đại Nam quấc âm tự vị" (1895) đã ghi nhận và giải thích: "Phải mà: nếu mà; phải có tiền: nếu có tiền; phải tôi giàu: nếu tôi giàu có"…
Từ "phải" hiểu theo nghĩa giá mà, giá như - ta còn có "phải chi", thí dụ ca dao Nam Bộ có câu: "Cá bống đi tu/ Cá thu nó khóc/ Cá lóc nó sầu/ Phải chi ngoài biển có cầu/ Anh ra đến đó giải sầu cho vui". Giả thiết này, xét ra cà rỡn bởi ai cũng biết đó là điều không thể xảy ra; cũng như: "Phải chi lên đặng Ngọc hoàng/ Anh coi sổ bộ duyên nàng về ai?". Âu cũng là tính chất hóm hỉnh của người miền Nam.
Tất nhiên, "phải" còn nhiều nghĩa khác nữa, tùy vào ngữ cảnh cụ thể. Thế thì xin hỏi câu thơ của Hồ Xuân Hương:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi
Ta hiểu thế nào về từ "phải/ phải duyên"? "Phải" ở đây chính là đúng. Nhưng người Việt không nói "đúng duyên" mà nói "hợp duyên", là duyên số hợp nhau. Xét từ "phải" theo nghĩa này, ta còn gặp trong câu ca dao: "Ba gian nhà rạ lòa xòa/ Phải duyên xem tựa chín tòa nhà lim". Trong "Truyện Kiều" cũng có một lần dùng từ "phải duyên": "Gặp nàng khi ở Châu Thai/ Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên".