Thỏa thuận quốc tế hỗ trợ đắc lực cho công tác hải quan
Với 58 điều ước, thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương, Hải quan Việt Nam có thể huy động và khai thác nguồn lực từ các đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý.

Nguồn: Hải quan Việt Nam Đồ họa: Văn Chung
Tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho việc trợ giúp lẫn nhau
Tính đến tháng 3/2025, Hải quan Việt Nam đã ký kết tổng cộng 58 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế song phương và đa phương, bao gồm 11 điều ước quốc tế đa phương, 12 điều ước quốc tế song phương, 14 thỏa thuận quốc tế cấp Bộ và 21 thỏa thuận quốc tế cấp Cục. Cùng với đó, đang đàm phán 8 điều ước quốc tế và 4 thỏa thuận quốc tế song phương.
Hướng tới loại bỏ những thủ tục không còn phù hợp
Theo Luật Hải quan, hợp tác quốc tế về hải quan bao gồm đàm phán, ký tổ chức thực hiện điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế về hải quan. Đây là cơ sở pháp lý cho hoạt động đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế mà ngành Hải quan đã và đang thực hiện, hướng tới loại bỏ những thủ tục không còn phù hợp hoặc đơn giản hóa, tăng tính khả thi trong việc thực hiện.
Hải quan Việt Nam cũng chủ trì đàm phán Chương Quản lý Hải quan và tạo thuận lợi thương mại, tham gia đàm phán các cam kết về xuất xứ hàng hóa, sở hữu trí tuệ và các nội dung khác liên quan đến hải quan trong khuôn khổ 17 hiệp định thương mại tự do (FTA)/Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện (CEPA) song phương và đa phương đã có hiệu lực; đang tham gia đàm phán các cam kết hải quan của 5 FTA.
Các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế đã tạo dựng khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động hợp tác và trợ giúp lẫn nhau về các vấn đề hải quan không chỉ tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước, mà còn hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý nhà nước về hải quan.
Bà Nguyễn Thị Việt Nga - Phó Chánh Văn phòng (Cục Hải quan) cho biết, sau khi ký các hiệp định, mức độ hợp tác cũng như nội dung chia sẻ thông tin giữa các kênh hợp tác được xây dựng rất vững chắc, đặc biệt là trong chia sẻ, trao đổi thông tin. Ngoài hình thành một hệ thống kênh trao đổi nghiệp vụ, hỗ trợ xác minh các lô hàng, phối hợp điều tra, chống vận chuyển hàng cấm, các chất ma túy, hải quan các nước còn có thể kết nối và chia sẻ thông tin hải quan điện tử, gồm thông tin tờ khai hải quan, thông tin chứng nhận xuất xứ và thông tin kiểm dịch...
Đặc biệt, các thỏa thuận còn góp phần tạo điều kiện để Hải quan Việt Nam học hỏi kinh nghiệm khảo sát nghiệp vụ, mô hình thông quan, quản lý hải quan, tổ chức bộ máy, mô hình đào tạo,… Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, hàng trăm lượt cán bộ công chức đã được gửi đi đào tạo, học tập kinh nghiệm hoặc đào tạo ngắn hạn, dài hạn bằng học bổng tại: Hải quan Pháp, Hải quan Nhật Bản, Hải quan Trung Quốc, Hải quan Hoa Kỳ, Hải quan Australia, New Zealand,… Cũng thông qua ký kết hợp tác, Hải quan Việt Nam đã tiếp nhận được các dự án quan trọng làm nền tảng cho quá trình hiện đại hóa như cung cấp trang thiết bị phân tích phân loại, viện trợ máy soi container; xây dựng hệ thống thông quan điện tử...
Thúc đẩy trao đổi thông tin, tạo thuận lợi
11 điều ước quốc tế đa phương Hải quan Việt Nam đã ký kết gia nhập chủ yếu trong khuôn khổ Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ASEAN và khu vực Tiểu vùng Sông Mê-Kông mở rộng (GMS). Đây chính là những cam kết tập trung vào các nội dung như chuẩn mực, thông lệ quốc tế phổ biến nhất về tạo thuận lợi thương mại và quản lý hải quan, thực thi Hiệp định trị giá hải quan.
Theo đánh giá của ông Satvinder Singh - Phó Tổng thư ký ASEAN, sự tham gia của Việt Nam vào các thỏa thuận quốc tế rất quan trọng cho việc nghiên cứu, áp dụng những thông lệ tốt nhất của Hải quan khu vực cũng như thế giới trong những lĩnh vực như đơn giản hóa thủ tục hải quan, thương mại điện tử và tham gia sáng kiến về nhà vận chuyển được cấp phép trong ACTS cùng với các nước thành viên khác.
Trong khi đó, các bản cam kết song phương chú trọng đẩy mạnh kết nối, chia sẻ dữ liệu thông tin hải quan với các nước, nhằm tạo thuận lợi cho hàng hóa được thông quan nhanh chóng, đồng thời đấu tranh hiệu quả chống buôn lậu, gian lận thương mại, ngăn chặn nguy cơ khủng bố và đảm bảo an ninh cho thương mại quốc tế.
Ông Michael Outram - Cao ủy Cơ quan Bảo vệ biên giới Australia (ABF) cho rằng, đằng sau các hoạt động thương mại hợp pháp đó là hàng hóa bất hợp pháp, buôn lậu, vận chuyển trái phép. Các hoạt động hợp tác hải quan song phương là căn cứ để hai bên đưa ra các kế hoạch hành động, kế hoạch công tác cụ thể. Để từ đó cam kết sẽ phối hợp cùng nhau xác định trọng điểm, chia sẻ thông tin, xây dựng đội ngũ cán bộ và phát triển năng lực.
Ở khía cạnh khác, bà Sahoko Shiga - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế (Tổng cục Hải quan Nhật Bản) nhận định, Hải quan Nhật Bản và Hải quan Việt Nam đều là thành viên của cộng đồng hải quan nên khi hợp tác, hai sẽ cùng nắm bắt được các thay đổi về gia tăng thương mại điện tử qua biên giới và khối lượng xuất nhập khẩu.
Việt Nam đảm nhận vai trò là Chủ tịch Hải quan ASEAN năm 2024 - 2025. Đây là một trong các giai đoạn quan trọng, trong khi khu vực ASEAN đang thay đổi nhanh chóng trong các lĩnh vực như là chuyển đổi số, chuyển dịch sang phát triển bền vững.
Trong nhiệm kỳ Chủ tịch này, Hải quan Việt Nam cũng sẽ đăng cai giữ vai trò lãnh đạo trong chiến dịch hải quan chung giữa các nước thành viên ASEAN. Việc đàm phán, gia nhập và ký kết các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về hợp tác và hỗ trợ hành trình lẫn nhau trong lĩnh vực hải quan sẽ giúp thúc đẩy trao đổi thông tin, tạo thuận lợi thương mại và quản lý hải quan.
Chế độ báo cáo, trách nhiệm kiểm tra đối với dự án ưu đãi đầu tư
Trước vướng mắc của hải quan địa phương liên quan đến chính sách đối với dự án “Nhà máy phân loại, xử lý rác thải, sản xuất biogas và phân bón khoáng hữu cơ”, Cục Hải quan đã có hướng dẫn cụ thể.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 31a Nghị định 134/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại khoản 15 Điều 1 Nghị định 18/2021/NĐ-CP thì chủ dự án có trách nhiệm: “Định kỳ hàng năm, trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính, tổ chức, cá nhân thông báo tình hình sử dụng hàng hóa miễn thuế trong năm tài chính cho cơ quan hải quan nơi tiếp nhận Danh mục miễn thuế cho đến khi toàn bộ dự án chấm dứt hoạt động hoặc hàng hóa đã tái xuất khẩu ra khỏi Việt Nam hoặc khi hàng hóa thay đổi mục đích sử dụng miễn thuế, chuyển tiêu thụ nội địa, đã được tiêu hủy”.
Cũng tại điểm c, điểm d khoản 6 Điều 30 Nghị định 134/2016/NĐ-CP quy định trách nhiệm của cơ quan hải quan có nêu: “Kiểm tra việc sử dụng hàng hóa miễn thuế trên cơ sở áp dụng cơ chế quản lý rủi ro theo quy định của pháp luật về quản lý thuế, pháp luật hải quan; thu hồi, thông báo cho chủ dự án điều chỉnh Danh mục miễn thuế, dùng làm thủ tục miễn thuế, thu hồi số tiền thuế đã miễn phù hợp với dự án chấm dứt hoặc điều chỉnh hoạt động đối với trường hợp dự án chấm dứt hoặc điều chỉnh hoạt động”.
Ngoài ra, khoản 6 Điều 30 Nghị định 126/2020/NĐ-CP quy định: “Hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng miễn thuế, không chịu thuế, người nộp thuế cầm cố, thế chấp để làm tài sản đảm bảo các khoản vay nhưng ngân hàng thương mại phải xử lý tài sản cầm cố, thế chấp theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ, thì ngân hàng thương mại cung cấp thông tin về hàng hóa cầm cố, thế chấp cho cơ quan hải quan để thực hiện ấn định thuế, ngân hàng thương mại có trách nhiệm nộp thuế thay cho người nộp thuế theo quyết định ấn định thuế của cơ quan hải quan”.
Đối chiếu với các quy định hiện hành, Cục Hải quan đề nghị các đơn vị căn cứ quy định nêu trên để thực hiện.