Thơ về Đền Hùng với cội nguồn lịch sử
Cội nguồn trầm tích của lịch sử luôn là cảm hứng cho các nhà thơ khi viết về Đền Hùng, về vùng đất Tổ Hùng Vương. Đọc lại những vần thơ, ta như được đọc lại một cuốn biên niên sử tâm hồn, sống lại không khí trang nghiêm của quá khứ trong những giây phút thiêng liêng của hiện tại. Dòng mạch cảm xúc đó chính là cảm hứng về cội nguồn của dân tộc ta với bao huyền thoại truyền thuyết.

Những ngày đầu tháng Ba âm lịch, triệu trái tim người dân Việt Nam lại hướng về đất Tổ Vua Hùng với lòng thành kính để tưởng nhớ công ơn các bậc tiền nhân đã có công dựng nước. Ảnh: Thái An
Hành hương trở về với Đền Hùng, trở về với lịch sử, cố nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh có một tứ thơ khá ân tình: “Đêm nay mình ngủ cuối Phong Châu”. Ông là một người lính, một nhà thơ quân đội vừa trải qua bao trận mạc trở về với đất Phong Châu, với núi Nghĩa Lĩnh, với ngàn xanh tán cọ trung du, xin được yên tĩnh phút giây này, mong được: “Nhưng thôi đêm nay cho mình được ngủ/Cuối Phong Châu sau cuộc chiến tranh này/Mai biên giới phía nào gọi tên mình đến giữ/Cũng xin đừng lay động giấc đêm nay”. Vâng, giấc ngủ hiếm hoi của người lính trong hơi thở trầm lắng của đất đai linh thiêng sinh khí bao bọc trong hào khí lịch sử nhuốm bao truyền thuyết, khi mà: “Dễ gì mơ thấy được dáng bàn tay/Nâng ốc thổi, thúc voi chầu bãi đá/Dễ gì mơ thấy được quả xôi đầy/Vua Hùng đến tấm lòng dân dã”. Mạch thơ tự nhiên, thuần khiết, bình dị mà lắng sâu biết bao.
Cố nhà thơ Nguyễn Phan Hách lại có một tứ thơ lạ “Người mẹ Cà Mau thăm mộ Tổ”. Cà Mau - nơi mũi đất tận cùng phía Nam đất nước và hình ảnh người mẹ già thân thương lặn lội đường trường về thăm mộ Tổ Đền Hùng thật cảm động biết bao: “Chân còn lấm phù sa/Mũi Cà Mau sóng nước/Qua nghìn dặm đường dài/Mẹ về nơi mong ước”. Mẹ về thăm mộ Tổ chính là về với cội nguồn. Chúng ta như được dõi theo bước chân thập thễnh của mẹ bỗng trở nên thanh thoát, ung dung, tự tại khi được nghe: “Tiếng trống đồng náo nức/Mộ Tổ thành Phong Châu” và được thấy: “Non sông phơi gấm vóc/Trăm voi thế phục chầu”. Mẹ là kết tinh bao phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam, của bao đức tính: trung hậu, đảm đang và anh dũng, hiên ngang. Tứ thơ đã xác lập, đã định vị được bao thiêng liêng, gần gũi với bao nỗi cảm thông, chia sẻ. Tiếng thơ viết về Đền Hùng vì thế đã ngân vọng hơn, sâu thẳm hơn và cũng khái quát hơn.
Nhà thơ Nguyễn Hưng Hải - một người con của đất Phong Châu, lại chọn một thời khắc: “Nghĩa Lĩnh lúc không giờ” để bày tỏ cảm xúc của mình, khi thi sĩ phát hiện ra những cây chò xanh cổ thụ ở Đền Hùng chính là những tán ô rộng xòe che mưa cho khách hành hương về đây. Nhà thơ đã phát hiện phút giây thiêng liêng: “Bao đôi lứa như ta có mặt lúc không giờ/Trên Nghĩa Lĩnh đầu trần không ướt tóc/Đã nghìn năm những thân chò thẳng tắp/Đứng như người đang đứng trước lư hương”. Và Nguyễn Hưng Hải đã chiêm nghiệm: “Nghĩa Lĩnh lúc không giờ bén những chân nhang/Ta cùng em sống lại thời chim Lạc/Trong tâm tưởng Vua Hùng che cho những lứa đôi”. Chất thơ trẻ trung, tươi thắm, nhuần nhị mà vẫn tải được bao đằm thắm, ân tình.
Hành hương về với Đền Hùng là về với những địa danh, địa chỉ tin cậy và ấm áp. Đó là một xóm núi Thậm Thình với sự tích vua tôi cùng cày ruộng, giã gạo trong thơ Nguyễn Hữu Quý: “Thậm Thình vọng tiếng chày đêm/Lúa Giao Chỉ đã chín lên hai mùa”. Và đặc biệt là bài thơ “Qua Thậm Thình” của nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi. Theo tôi, đây là một trong những bài thơ lục bát hay nhất viết về Đền Hùng đã được tuyển chọn vào sách giáo khoa. Bài thơ như một giọng kể, nhưng giọng kể của tâm tưởng của bao ánh xạ không chỉ là hồi ức mà rất sống động, tươi mới: “Vua Hùng một sáng đi săn/Trưa tròn bóng nắng nghỉ chân chốn này/Dân dâng một quả xôi đầy/Bánh chưng mấy cặp, bánh giầy mấy đôi”. Một sức sống phồn thực, dân dã, quấn quýt tràn đầy biết bao khi những cặp lục bát tương ứng nhịp nhàng mở ra đồng điệu và cộng hưởng với: “Trăm cô gái tựa tiên sa/Múa chày đôi với chày ba rập rình/Đêm đêm tiếng thậm, tiếng thình/Cối gạo đầy cả nghĩa tình nước non”. Trong âm vang của tiếng chày giã gạo, ta như được sống lại, được vun đầy bao vẻ đẹp thôn quê Việt Nam với nền văn minh lúa nước. Đây cũng chính là một trong những mạch nguồn sức sống tiềm tàng của cộng đồng dân tộc mà truyền thuyến bánh chưng, bánh giầy, trời tròn, đất vuông chính là một ẩn số của vũ trụ thắm đượm bao hồn thiêng sông núi dành tặng cho đất Việt thân yêu, mà Đền Hùng là cột mốc tâm linh biểu trưng cho vẻ đẹp ngàn đời bất diệt ấy.
Cố nhà thơ Tạ Hữu Yên thật độc đáo và khá thuyết phục khi dựng nên tứ thơ: “Dựng tượng Vua Hùng phác thảo”, ông đã tưởng tượng ra tượng đài Vua Hùng: “Tượng đài sẽ dựng lên/Dưới vòm trời Bạch Hạc/Dập dìu đàn chim Lạc/Bao quanh tượng Vua Hùng”. Một bức tượng được tạc từ lòng dân, từ ký ức lịch sử, từ lòng người ngưỡng vọng cao cả: “Người đứng trên tầm cao/Nhưng mà gần gũi quá/Tấm áo không thêu Rồng/ Màu vải quê dân dã”. Một bức tượng gần gũi bền lòng và thân thiết, gắn bó với đồng quê mộc mạc, với hồn quê đằm sâu: “Đôi chân người bùn đất/Thuở ấy vua đi cày/ Cánh cò cùng bông lúa/Làm bạn thân đêm ngày”. Một bức tượng sống giữa lòng dân: “Về quanh người, nhân dân/Những đời thường áo vải/Nhịp bàn chân mê mải/Trên dặm đường phía xa”.
Thơ viết về Đền Hùng chính từ cội nguồn truyền thống lịch sử đến với bao dự cảm khát vọng tương của hành trình dựng nước và giữ nước của dân tộc. Và thi ca đã dựng nên bức tượng đài bất tử với lòng tri ân sâu sắc khi viết về Đền Hùng.