Thêm một góc nhìn lịch sử và văn hóa về Tây Đô
Viết về vùng đất Tây Đô (Vĩnh Lộc ngày nay) chắc chắn không hề dễ. Bởi từng tảng đá, gốc cây đều được các nhà nghiên cứu lịch sử trước đó dày công tìm hiểu tư liệu, điền dã và 'đóng đinh' trong nhiều cuốn sách. Tuy nhiên, vẫn mảnh đất có bề dày lịch sử, đậm đặc huyền tích và dấu ấn văn hóa ấy, nhưng với ánh nhìn hiện đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Miên lại soi chiếu và đánh giá con người, sự việc ở một góc khác.

“Tây Đô - một góc nhìn lịch sử và văn hóa” (NXB Thanh niên, 2024) của Nguyễn Huy Miên dày hơn 250 trang với phần lớn là các bài viết về Thành Nhà Hồ và những câu chuyện lịch sử của một vương triều chỉ tồn tại 7 năm. Thời gian ngắn ngủi (1400-1407) song là một giai đoạn hùng tráng và không kém phần bi thương của lịch sử dân tộc gắn liền với tên tuổi của Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương, Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân...
Viết về những con người của một giai đoạn lịch sử đã qua, Nguyễn Huy Miên thể hiện một cái nhìn khá công bằng. “Hồ Quý Ly, những cơ duyên tạo nên sự nghiệp” giúp người đọc không chỉ thêm tư liệu về cuộc đời một nhân vật có học hành, võ công văn sách tài lược, từng được Thượng Hoàng Trần Nghệ Tông ban cho thanh gươm quý, một lá cờ có tám chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”. Đánh giá về Hồ Quý Ly, các sử gia phong kiến, các vương triều trước, theo quan điểm Nho giáo chính thống, gọi ông là loạn thần tiếm vị không chính danh, công ít tội nhiều. Ngày nay với quan điểm công bằng, Hồ Quý Ly được đánh giá là một người yêu nước, sẵn sàng chống trả ngoại xâm, bản lĩnh táo bạo và có nhiều tham vọng. Trong những năm giữ quyền bính của triều Trần và khi nắm trong tay cả thiên hạ, ông đã thực hiện một số cải cách canh tân đất nước, cứu vãn nguy cơ sụp đổ của nhà nước phong kiến và củng cố địa vị của dòng họ thống trị. Tồn tại trong 7 năm, vương triều Hồ đã để lại cho hậu thế một tòa thành đá vĩ đại - đó là Thành Nhà Hồ, được công nhận là di sản văn hóa thế giới, là bảo vật quý giá của quốc gia.
Không ngẫu nhiên mà nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Miên lại dành nhiều trang sách để viết về “Những cải cách canh tân đất nước của Hồ Quý Ly dưới triều Trần - Hồ” và “Thành Tây Đô, những sự kiện lịch sử”. Nguyễn Huy Miên thêm một lần nữa chứng minh Hồ Quý Ly là người quyết đoán và năng động khi ban hành nhiều cải cách chính trị để củng cố chế độ, chấn hưng đất nước. “Tuy nhiên vì cải cách quá dồn dập, nhiều ý tưởng lại vượt thời đại quá xa nên vô tình đã đẩy đất nước vào thế hỗn loạn, để rồi nhà Minh đã chớp thời cơ xâm lược, khiến Đại Việt chìm trong hơn hai mươi năm Minh thuộc đầy bi kịch”. Hồ Quý Ly, qua các trang viết của Nguyễn Huy Miên còn là người “giỏi thơ Quốc âm”. 5 bài thơ được trích dẫn trong “Hồ Quý Ly - một văn nghiệp tiêu biểu” đáng chú ý nhất là “Cảm hoài” (Nỗi lòng), sáng tác trong thời điểm ông bị nhà Minh bắt giam. Bài thơ trực tiếp thổ lộ tâm tình xót xa, tủi thẹn của ông trong lúc bị giam cầm ở đất Bắc. Trong thân phận lao tù, ông xúc động nhớ nước, nhớ nhà, rồi giật mình kinh sợ cho số phận của cá nhân và thảm kịch của đất nước ta. Ông tự kiểm điểm về những sai lầm của mình, vì tài hèn kế vụng, nên thất bại, đành hổ thẹn với người xưa.
Cuộc đời con người, có vinh - nhục, có thành công - thất bại, Hồ Quý Ly trải đủ cung bậc cảm xúc đó. Thông qua nguồn tư liệu của mình, Nguyễn Huy Miên cũng thể hiện một cái nhìn khá công bằng, thậm chí có phần ưu ái với vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu.
Hồ Hán Thương, vị hoàng đế thứ 2 và cũng là vị hoàng đế cuối cùng của triều Hồ. Trong thời gian ở ngôi, ông sử dụng hai niên hiệu: Thiệu Thành (1401-1402), Khai Đại (1403-1407), cùng Thượng hoàng Hồ Quý Ly trông coi việc nước. Hồ Hán Thương cũng là người 2 lần đem quân đi đánh Chiêm Thành. Lần đầu năm 1402, quân Đại Ngu thắng lợi, vua Chiêm phải dâng Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam và bắc Quảng Ngãi hiện nay). Năm 1403, Hồ Hán Thương lại sai Phạm Nguyên Khôi đi đánh Chiêm, vây kinh đô Đồ Bàn trong 9 tháng nhưng không hạ được, khi hết lương thực phải rút về.
“Công trạng lớn nhất của Hồ Hán Thương là mở rộng lãnh thổ Đại Ngu về phía Nam (đến bắc Quảng Ngãi hiện nay). Những vùng đất chưa có người ở, Hồ Hán Thương đem dân các lộ, người nào không có ruộng, đem vợ con đến đấy ở khai thác, sinh cơ lập nghiệp”.
Hồ Hán Thương để mất vương nghiệp là có nhiều nguyên nhân, theo các sử gia và các nhà nghiên cứu nhận định: Trong tình hình đất nước rối ren do sự suy sụp của nhà Trần, các chính sách cải cách do Thượng hoàng Hồ Quý Ly khởi xướng vốn không được Nhân dân ủng hộ, thêm vào đó là sự chống đối của con cháu họ Trần, nên đất nước bị chia rẽ từ bên trong và không có nhiều người tài tận lực vì nhà Hồ để đánh quân Minh.
Nếu Hồ Hán Thương được giữ ngôi vua thì Hồ Nguyên Trừng lại được hậu thế nhắc nhiều nhất với tư cách một nhà quân sự có tài. Là con trưởng của Hồ Quý Ly, được mệnh danh là “Hỏa khí chi thần”, Hồ Nguyên Trừng đã chế ra súng “Thần cơ” (thần công), loại súng có uy lực mạnh nhất thời bấy giờ. Ngoài ra, ông còn có công lao trong việc đắp lũy, đóng thuyền để chống giặc...
Khi nhà Hồ thất bại, bị bắt sang Trung Quốc, sống ở nơi đất khách, với tâm trạng kẻ tha hương, ông đã lấy hiệu cho mình là Nam Ông (ông già nước Nam), viết sách Nam Ông mộng lục (1438) - tập sách cung cấp nhiều tư liệu lịch sử quý về đời sống xã hội Việt Nam thời Lý - Trần, trong đó có những nét sinh hoạt tín ngưỡng, trào lưu đạo giáo, sinh hoạt thi văn trong giới tao nhân mặc khách, phong độ cốt cách các sỹ phu quân tử.
Cũng trên đất Tây Đô xưa, bao phủ xung quanh những nhân vật lịch sử là cả nền văn hóa với những đền đài, miếu mạo cùng lễ hội đặc sắc. Các bài viết về Trần Khát Chân, Cống Sinh, Bình Khương... và làng Bèo, Cẩm Bào, Tây Giai, Cẩm Hoàng, Xuân Áng, Đông Môn..., đã khẳng định Nguyễn Huy Miên có sự đầu tư tìm hiểu tư liệu không chỉ trong văn tự mà còn chính ở những câu chuyện dân gian.
Viết về một giai đoạn lịch sử, thường người đi sau sẽ bị đóng khung trong tư duy và khuôn khổ của người đi trước, nhưng Nguyễn Huy Miên đã khá thông minh khi tìm ra hướng đi vào khu vực rừng già ấy để tìm một cành tươi non mơn mởn. Đọc sách của Nguyễn Huy Miên những người chuyên làm công tác khảo cứu có thể chưa thỏa mãn mong muốn trong dẫn liệu và cứ liệu. Song, với những người yêu văn hóa - lịch sử lại tự gợi mở thêm những hướng tiếp cận mới; với người thích du lịch, đây là sự chỉ dẫn khoa học và thực tế.
Hơn 600 năm đã trôi qua, trên mảnh đất Tây Đô xưa là biết bao huyền sử về con người và văn hóa của một vương triều tồn tại ngắn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, để hôm nay, người Vĩnh Lộc ngày càng thêm tự hào, gắn kết và phát triển. Nguyễn Huy Miên là người con của Vĩnh Lộc, tự hào về mảnh đất văn hiến ấy cũng chính là động lực thôi thúc ông khảo cứu và giới thiệu với người đọc nét đẹp và những trầm tích văn hóa của quê mình.