Tạo môi trường pháp lý thống nhất, ổn định về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Sáng 22/11, Quốc hội nghe báo cáo của Chính phủ và cơ quan thẩm tra về dự án Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi). Theo các cơ quan, Dự thảo Luật đã khắc phục các vướng mắc, bất cập hiện hành; khuyến khích, cải thiện môi trường đầu tư và tạo môi trường pháp lý thống nhất, ổn định về ưu đãi thuế để bảo đảm tính nhất quán, rõ ràng và thuận lợi trong thực hiện.
Đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện
Trình bày Tờ trình về dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi), Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long cho biết, Dự thảo Luật gồm 04 chương, 20 điều, trong đó: Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 5); Chương II. Căn cứ và phương pháp tính thuế (từ Điều 6 đến Điều 11); Chương III. Ưu đãi thuế TNDN (từ Điều 12 đến Điều 18); Chương IV. Điều khoản thi hành (Điều 19 và 20). Dự thảo Luật bám sát theo các nhóm chính sách tại hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế TNDN (sửa đổi) đã được Quốc hội đồng ý.
Việc ban hành Luật này nhằm sửa đổi hoặc bãi bỏ những nội dung không còn phù hợp; hạn chế tối đa việc lồng ghép chính sách xã hội với chính sách miễn, giảm thuế; bảo đảm tính trung lập của thuế để áp dụng ổn định, dài hạn; thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế đầu tư vào các ngành nghề và địa bàn cần khuyến khích đầu tư. Đáp ứng yêu cầu sửa đổi, bổ sung đồng bộ, toàn diện theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế phù hợp với bối cảnh, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Đất nước. Đảm bảo tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện, thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh. Thực hiện các tiêu chuẩn về phòng, chống chuyển giá, chống trốn thuế, thất thu thuế, chống xói mòn nguồn thu theo thông lệ quốc tế.
Về người nộp thuế và thu nhập chịu thuế, Dự thảo bổ sung quy định doanh nghiệp nước ngoài cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo các hình thức kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số nộp thuế đối với thu nhập chịu thuế phát sinh tại Việt Nam; cơ sở thường trú của doanh nghiệp nước ngoài bao gồm cả nền tảng thương mại điện tử, nền tảng công nghệ số mà thông qua đó doanh nghiệp nước ngoài tiến hành cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại Việt Nam.
Về xác định thu nhập tính thuế và phương pháp tính thuế, Dự thảo quy định cụ thể về phương pháp tính thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu đối với các đối tượng là: doanh nghiệp nước ngoài không có cơ sở thường trú phát sinh thu nhập tại Việt Nam; trường hợp hạch toán được doanh thu nhưng không xác định được chi phí, thu nhập đối với tổ chức được thành lập theo Luật Hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp và tổ chức khác, doanh nghiệp có tổng doanh thu năm không quá 03 tỷ đồng.
Dự thảo Luật cũng bổ sung mức thuế suất (15% và 17%) áp dụng riêng cho doanh nghiệp có doanh thu dưới 03 tỷ đồng, doanh nghiệp có doanh thu từ 03 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng. Sửa đổi, bổ sung các quy định về khung thuế suất đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí, về mức thuế suất đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến tài nguyên quý hiếm.
Đối với ưu đãi thuế TNDN, Dự thảo bổ sung quy định về các nguyên tắc áp dụng ưu đãi thuế TNDN đối với trường hợp có nhiều văn bản cùng quy định; trường hợp doanh nghiệp đáp ứng nhiều điều kiện ưu đãi thuế khác nhau; áp dụng ưu đãi thuế theo tiêu chí địa bàn hay trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp.
Đồng thời, bổ sung ưu đãi với trường hợp được bổ sung thêm vào diện ưu đãi khi pháp luật thay đổi; về kỳ tính thuế hưởng ưu đãi đầu tiên dưới 12 tháng; việc kế thừa các nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến ưu đãi thuế trong trường hợp doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi chủ sở hữu, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp.
Dự thảo cũng quy định chi tiết về đối tượng ưu đãi thuế TNDN (ngành, nghề, địa bàn và các hoạt động được ưu đãi) trên cơ sở cơ bản kế thừa quy định pháp luật hiện hành nhưng có rà soát nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước liên quan đến chính sách ưu đãi thuế.
Tạo môi trường pháp lý ổn định, thống nhất
Thay mặt cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách (TCNS) Lê Quang Mạnh cho biết, Ủy ban nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế TNDN để khắc phục các vướng mắc, bất cập của Luật hiện hành và phù hợp với quá trình phát triển của nền kinh tế trong nước và thế giới.
Dự thảo Luật tập trung một số mục tiêu lớn là: Tháo gỡ bất cập, vướng mắc cho khu vực doanh nghiệp để tạo môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế; Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, Nhà nước về khuyến khích, cải thiện môi trường đầu tư, giải quyết các hạn chế, bất cập về ưu đãi thuế, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thu hút các nhà đầu tư quốc tế phù hợp xu hướng mới; Tạo môi trường pháp lý thống nhất và ổn định về ưu đãi thuế TNDN tại Luật này để bảo đảm tính nhất quán, rõ ràng và thuận lợi trong thực hiện.
Về nguyên tắc, áp dụng ưu đãi thuế TNDN, đa số ý kiến trong Ủy ban TCNS nhất trí với nguyên tắc ưu tiên áp dụng Luật thuế TNDN trong trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Thuế TNDN với các Luật khác như được thể hiện trong dự thảo Luật để đảm bảo tính thống nhất trong thực thi pháp luật, tránh việc quy định ưu đãi dàn trải tại nhiều văn bản Luật chuyên ngành khác nhau. Các ưu đãi thuế cần được và chỉ nên được quy định trong các văn bản pháp luật về thuế để bảo đảm tính tổng thể, nhất quán của hệ thống ưu đãi thuế TNDN theo Chiến lược cải cách thuế đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Đối với việc quyết định mức độ ưu đãi đầu tư đặc biệt, Dự thảo Luật giao Thủ tướng Chính phủ thẩm quyền quyết định việc kéo dài thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi, thời gian được hưởng miễn, giảm thuế; mức miễn giảm bổ sung, áp dụng với dự án được hưởng ưu đãi đầu tư đặc biệt. Các nội dung này được quy định trong Luật Đầu tư năm 2020 và được tổng hợp vào dự thảo Luật Thuế. Đây là những khoản ưu đãi lớn, để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, là quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế, vì vậy, nhiều ý kiến đề nghị nên giao Chính phủ quy định để bảo đảm việc tổ chức thực hiện Luật một cách tổng thể và thống nhất.
Về hình thức ưu đãi thuế TNDN, Dự thảo Luật tiếp tục duy trì các hình thức ưu đãi thuế dựa trên thu nhập, như miễn thuế, giảm số thuế phải nộp và các mức thuế suất ưu đãi. Hình thức ưu đãi thuế TNDN dựa trên chi phí nghiên cứu phát triển hiện đã được quy định tại một số Nghị quyết của Quốc hội về cơ chế đặc thù, áp dụng thí điểm tại một số địa phương.
Ủy ban TCNS đề nghị khẩn trương có giải pháp đưa những nội dung này vào áp dụng trên thực tế. Một số ý kiến đề nghị nghiên cứu đa dạng hóa chính sách ưu đãi thuế để không phụ thuộc vào ưu đãi theo thu nhập như hiện nay, cần kết hợp song song với các biện pháp ưu đãi dựa trên chi phí, như kinh nghiệm quốc tế để thu hút những nhà đầu tư thế hệ mới.