Tạo hành lang pháp lý thu hút nguồn vốn ngoài nhà nước đầu tư đường sắt
Chính phủ vừa báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Báo cáo) về tiếp thu các ý kiến của đại biểu Quốc hội, chỉnh lý và hoàn thiện dự thảo Luật Đường sắt (sửa đổi).
Lựa chọn các cơ chế đặc thù, khả thi, tạo đột phá
Theo báo cáo, các đại biểu Quốc hội đều tán thành với sự cần thiết ban hành, phạm vi sửa đổi và nội dung cơ bản của dự thảo Luật. Đa số ý kiến đồng tình cao với các nội dung dự thảo, cho rằng Luật đã thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về đầu tư phát triển hệ thống đường sắt, tháo gỡ các điểm nghẽn thể chế, phù hợp yêu cầu đổi mới tư duy lập pháp.
Tuy vậy, vẫn có nội dung cần tiếp tục làm rõ, bổ sung. Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, các cơ quan của Quốc hội và liên quan tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo.

Luật hóa 18 cơ chế khả thi hiệu quả, mang tính phổ quát cao, đưa vào dự thảo Luật Đường sắt (sửa đổi) nhằm tạo đột phá cho phát triển hệ thống đường sắt (Ảnh: minh họa, AI tạo).
Về việc luật hóa cơ chế, chính sách đặc thù trong dự thảo Luật, Bộ Xây dựng cho biết cơ quan soạn thảo đã tập trung toàn bộ các chính sách ưu đãi vào một mục riêng thuộc Chương 2, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đường sắt và huy động nguồn lực đầu tư.
Cụ thể, chỉ luật hóa 18 cơ chế có tính khả thi, hiệu quả, phổ quát cao, giới hạn áp dụng cho các dự án đường sắt quan trọng quốc gia, do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; không áp dụng đại trà cho tất cả dự án đường sắt. Chính phủ đã rà soát, chỉnh lý các cơ chế này nhằm bảo đảm tính ổn định, khả thi và tạo đột phá phát triển hệ thống đường sắt, đồng thời thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng.
Đối với 5 chính sách chưa được luật hóa, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật, Chính phủ đề xuất: bổ sung 3 chính sách liên quan đến "bãi đổ thải, vật liệu xây dựng, chuyển mục đích sử dụng rừng" vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 9 Quốc hội; còn 2 chính sách về huy động, bố trí vốn đầu tư (do không mang tính phổ quát, phụ thuộc vào khả năng ngân sách từng thời kỳ) sẽ được xem xét khi cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư.
Liên quan đến chính sách ưu đãi đầu tư, nhiều đại biểu đồng tình cần có ưu đãi vượt trội cho nhà đầu tư vào lĩnh vực đường sắt, kể cả trong thiết kế, đánh giá tác động. Tuy nhiên, một số ý kiến lo ngại việc Chính phủ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân tiềm ẩn rủi ro, bởi nếu doanh nghiệp thất bại, ngân sách nhà nước có thể phải gánh chịu hậu quả.
Theo Chính phủ, quy định bảo lãnh tín dụng kế thừa từ Luật Đường sắt 2017, trong đó tổ chức, cá nhân kinh doanh đường sắt "được cấp bảo lãnh Chính phủ về vốn vay theo quy định của pháp luật về quản lý nợ công". Pháp luật hiện hành cũng không cấm tổ chức, doanh nghiệp huy động vốn trong nước và quốc tế cho đầu tư đường sắt. Đồng thời, pháp luật về quản lý nợ công đã quy định chặt chẽ đối tượng, điều kiện cấp bảo lãnh và trách nhiệm của các bên liên quan. Doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ nợ phát sinh, nhà nước không gánh thay. Vì vậy, quy định như dự thảo là phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Luật.

Nhiều nội dung tạo thuận lợi, thu hút vốn đầu tư ngoài Nhà nước để phát triển hệ thống đường sắt (Ảnh: minh họa).
Huy động nguồn vốn đầu tư ngoài Nhà nước
Về đầu tư đường sắt bằng nguồn vốn ngoài nhà nước, nhiều đại biểu thống nhất cần khuyến khích khu vực tư nhân tham gia nhưng đồng thời phải có cơ chế minh bạch, kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm hiệu quả và tránh thất thoát.
Một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể về phương thức đối tác công tư (PPP), trong đó có cơ chế chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước và nhà đầu tư, bảo đảm nguyên tắc lợi nhuận hợp lý trong suốt vòng đời dự án. Chính phủ cho biết, cơ chế này đã được pháp luật về PPP quy định rõ nên đề nghị giữ nguyên như dự thảo Luật.
Có ý kiến đề xuất bổ sung cơ chế cho phép nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án đường sắt do Nhà nước quyết định chủ trương đầu tư (như các tuyến đường sắt quốc gia hoặc địa phương). Chính phủ khẳng định, dự thảo Luật đã quy định rõ tại Điều 24, tạo điều kiện cho nhà đầu tư tư nhân tham gia. Trường hợp có nhà đầu tư đề xuất tham gia các dự án đã được phê duyệt chủ trương đầu tư, việc điều chỉnh chủ trương đầu tư sẽ thực hiện theo quy định hiện hành về đầu tư và PPP.
Đối với ý kiến lo ngại về việc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được chỉ định nhà đầu tư thực hiện các dự án phát triển đô thị theo mô hình TOD trong khu vực ga đường sắt quốc gia, có thể dẫn đến lợi ích nhóm, lựa chọn nhà đầu tư kém hiệu quả, mâu thuẫn với pháp luật đất đai, Chính phủ cho rằng: do đặc thù các dự án đường sắt có tổng mức đầu tư rất lớn, khả năng thu hồi vốn thấp, nhà đầu tư phải đảm bảo nguồn lực vận hành, bảo trì hạ tầng sau đầu tư. Mặc dù Luật Đường sắt 2017 có nhiều ưu đãi nhưng thực tế vẫn chưa thu hút được nhà đầu tư tư nhân.
Vì vậy, để thể chế hóa Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, chính sách này là cần thiết nhằm khuyến khích, thu hút nhà đầu tư. Nhà đầu tư khi được chỉ định vẫn phải nộp tiền sử dụng đất và thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật về đầu tư và đất đai. Do đó, Chính phủ đề nghị giữ nguyên như dự thảo.
Về quy định "Nhà đầu tư không được chuyển nhượng dự án, vốn, tài sản hình thành sau đầu tư cho tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tổ chức có vốn nước ngoài", Chính phủ cho biết: nội dung này nhằm thể chế hóa Nghị quyết 68. Pháp luật hiện hành không cấm doanh nghiệp trong nước huy động vốn nước ngoài, tuy nhiên, trong trường hợp phá sản, doanh nghiệp phải tự chịu toàn bộ nghĩa vụ nợ, nhà nước không chịu trách nhiệm trả nợ thay.
Liên quan đến lo ngại thất thoát tài sản Nhà nước trong các dự án PPP khi phần kinh phí giải phóng mặt bằng không tính vào tỷ lệ vốn nhà nước tham gia, Chính phủ cho biết: pháp luật PPP hiện hành quy định vốn nhà nước tham gia không vượt quá 50% tổng mức đầu tư dự án. Tuy nhiên, với các dự án đường sắt có tổng mức đầu tư rất lớn, tỷ lệ vốn nhà nước hỗ trợ cần vượt quá 50% mới bảo đảm tính khả thi tài chính. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến từ trước đến nay hầu như không có nhà đầu tư tư nhân tham gia các dự án đường sắt, kể cả trong và ngoài nước.
Do đó, để thể chế hóa Nghị quyết 68, Chính phủ đề xuất nâng tỷ lệ hỗ trợ vốn nhà nước lên đến 80% hoặc giữ nguyên mức 50% nhưng không tính chi phí giải phóng mặt bằng vào tỷ lệ vốn nhà nước. Chi phí giải phóng mặt bằng sẽ được quyết toán trong dự án thành phần, thuộc sở hữu toàn dân, nhà đầu tư chỉ được giao quyền quản lý vận hành trong thời gian hoàn vốn, sau đó phải bàn giao lại toàn bộ tài sản cho Nhà nước.
Để tăng cường kiểm soát chuyển nhượng dự án, dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định rõ: "Nhà đầu tư không được chuyển nhượng dự án, chuyển nhượng doanh nghiệp dự án, vốn, tài sản hình thành trong và sau đầu tư cho tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tổ chức có vốn nước ngoài."
Dự thảo Luật cũng quy định: đối với các dự án đường sắt do nhà đầu tư đề xuất theo pháp luật PPP, sau khi được phê duyệt, người có thẩm quyền được quyết định chỉ định nhà đầu tư. Tuy nhiên, để bảo đảm năng lực tài chính, Chính phủ bổ sung quy định: "Nhà đầu tư được chỉ định phải chứng minh đủ năng lực về vốn chủ sở hữu, khả năng huy động vốn vay và các nguồn vốn hợp pháp khác; có đủ kinh nghiệm hoặc thỏa thuận hợp tác với đối tác có kinh nghiệm thực hiện các dự án tương tự."

Dự thảo Luật Đường sắt (sửa đổi) quy định nhiều nội dung nhằm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và ngăn ngừa trục lợi chính sách khi đầu tư đường sắt (Ảnh: minh họa).
Bảo đảm phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngăn ngừa trục lợi chính sách
Dự thảo Luật đã dành riêng một điều quy định về bảo đảm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, coi đây là cơ chế kiểm soát, giám sát của Nhà nước khi luật hóa các chính sách đặc thù, đặc biệt, nhất là đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án đường sắt do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư.
Cụ thể, trong quá trình lựa chọn nhà đầu tư, nhà thầu các gói thầu EPC, EC, EP, tư vấn sử dụng nhà thầu nước ngoài, đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ và Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm tham gia tổ thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu và kết quả lựa chọn nhà thầu. Các thành viên tổ thẩm định thuộc các cơ quan này không phải đáp ứng điều kiện, năng lực, kinh nghiệm theo quy định của pháp luật về đấu thầu do không trực tiếp thực hiện nghiệp vụ đấu thầu, mà nhằm bảo đảm tính minh bạch và giám sát độc lập.
Kiểm toán Nhà nước có trách nhiệm kiểm toán hồ sơ tổng mức đầu tư đã được hoàn thiện theo báo cáo thẩm định của cấp quyết định đầu tư. Kết quả kiểm toán phải được gửi cho cơ quan quyết định đầu tư trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ đề nghị kiểm toán.
Theo Chính phủ, việc mời các bộ, ngành tham gia thẩm định nhằm bảo đảm minh bạch, kiểm soát chặt chẽ công tác đấu thầu, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực và lợi ích nhóm.
Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về cơ chế giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh đối với việc tổ chức thực hiện của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Chính phủ khẳng định: "Ngoài các quy định trong dự thảo Luật, các chủ thể khi thực hiện dự án còn phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về đầu tư, xây dựng, đấu thầu, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Bộ luật Hình sự... Hệ thống quy định pháp luật hiện hành đủ chặt chẽ, rõ ràng để đảm bảo minh bạch, ngăn ngừa hành vi trục lợi chính sách khi triển khai trên thực tiễn."