Tăng cạnh tranh cho ngành dệt may, da giày
Mặc dù đứng thứ 2 trong số các nước xuất khẩu dệt may, da giày thế giới nhưng giá trị mang lại của hai ngành này rất thấp, các doanh nghiệp chủ yếu làm gia công và phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

May hàng xuất khẩu tại Nhà máy may Hanosimex Ðồng Văn. (Ảnh: MINH ĐỨC-TRỊNH BÌNH)
Số liệu thống kê của Cục Hải quan cho thấy, tính đến ngày 15/8, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 28,6 tỷ USD, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2024.
Với mức tăng trưởng nêu trên cùng dự báo có bước đột phá vào mùa cao điểm mua sắm cuối năm sẽ giúp ngành cán đích mục tiêu 47-48 tỷ USD.
Trong 6 tháng qua, ngành da giày cũng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 14 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ. Việc xuất khẩu 1,3 tỷ đôi giày/năm đã giúp ngành da giày duy trì vị trí thứ 2 toàn cầu về xuất khẩu, chỉ sau Trung Quốc.
Trong 6 tháng qua, ngành da giày cũng đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 14 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ. Việc xuất khẩu 1,3 tỷ đôi giày/năm đã giúp ngành da giày duy trì vị trí thứ 2 toàn cầu về xuất khẩu, chỉ sau Trung Quốc.
Kết quả ấn tượng nêu trên do ngành da giày tận dụng tốt các ưu đãi thuế quan từ 17 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết, qua đó, tạo lợi thế cạnh tranh về giá cho sản phẩm da giày khi tiếp cận các thị trường nhập khẩu lớn.
Thời gian tới, các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư, đẩy mạnh sản xuất theo hướng xanh, tuần hoàn và thân thiện với môi trường để tăng cường xuất khẩu, sớm cán đích mục tiêu xuất khẩu 29 tỷ USD.
Nhờ áp dụng linh hoạt các giải pháp ứng phó trước biến động thị trường đã giúp ngành dệt may luôn duy trì đà tăng trưởng ở mức hai con số.
Với việc mở rộng xuất khẩu sang 132 quốc gia, vùng lãnh thổ cùng đối tác, khách hàng ngày càng tin tưởng, lựa chọn hàng đầu trong việc đặt cứ điểm sản xuất đã khẳng định vị thế của ngành trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tuy nhiên, ngành đang đối diện nhiều áp lực từ thuế đối ứng của Mỹ do kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam. Tiếp đến, nhiều nút thắt còn tồn tại như cơ hội tiếp cận với những đơn hàng lớn chưa nhiều, đơn giá thấp, phải phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Thực tế cho thấy, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm hiện chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, bản thân các tỉnh, thành phố thường “né” các dự án dệt nhuộm do lo ngại ô nhiễm môi trường. Để phục vụ sản xuất, ngành dệt may phải nhập khẩu hơn 60% nguyên phụ liệu từ nước ngoài, trong đó, khoảng 80-90% từ Trung Quốc.
Thực tế cho thấy, số lượng doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sợi, dệt, nhuộm hiện chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn, bản thân các tỉnh, thành phố thường “né” các dự án dệt nhuộm do lo ngại ô nhiễm môi trường. Để phục vụ sản xuất, ngành dệt may phải nhập khẩu hơn 60% nguyên phụ liệu từ nước ngoài, trong đó, khoảng 80-90% từ Trung Quốc.
Tương tự, tỷ lệ nội địa hóa của ngành da giày mới đạt 40-50%, số còn lại phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Bài toán thiết yếu cần lời giải đó là trong vài năm tới phải nâng được tỷ lệ nội địa hóa của ngành lên hơn 70%, lúc đó doanh nghiệp mới chủ động nguồn hàng sản xuất và đáp ứng các yêu cầu xuất xứ hàng hóa theo quy định.
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may và da giày luôn chiếm hơn 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước và Việt Nam là quốc gia xuất khẩu dệt may, da giày lớn thứ hai thế giới nhưng giá trị mang lại của ngành rất thấp.
Để tăng giá trị, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, bắt buộc doanh nghiệp phải nhanh chóng chuyển đổi mô hình sản xuất từ may gia công thuần túy sang các phương thức sản xuất hiện đại, có giá trị gia tăng như sản xuất thiết kế gốc, thương hiệu gốc, đồng thời chủ động được nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất trong nước.
Bên cạnh sự tự thân của doanh nghiệp, rất cần sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc xây dựng các cơ chế, chính sách về đất đai, giảm thuế, phí,… đặc biệt, sớm xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển chuỗi cung ứng ngành công nghiệp thời trang theo từng khu vực, vùng miền nhằm nâng cao tỷ lệ nội địa hóa.