Rắn 'báo oán' hay… oan cho rắn?
Trong vô vàn những câu chuyện về rắn, nổi tiếng nhất có lẽ là câu chuyện rắn trả thù cách đây 600 năm mà bây giờ hễ nhắc thì ai cũng nhớ. Câu chuyện gắn với tên tuổi và số phận nghiệt ngã của danh nhân, anh hùng dân tộc: Nguyễn Trãi.
Tương truyền đời trước, ông nội của Nguyễn Trãi từ Hải Dương lên làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội ngày nay) mở trường dạy học. Thấy có một gò đất thế đẹp, ông sai học trò ra phát dọn để dựng trường. Đêm, ông nằm mộng thấy một người đàn bà đến gặp và van xin cho thêm ít ngày, đợi khi con cái bà ta cứng cáp, bà ta sẽ dọn đi. Tỉnh dậy, ông bần thần chưa hiểu thế nào thì học trò báo trong khi phát dọn đã phát hiện một ổ rắn có 3 con rắn con, họ đã đập chết cả, riêng rắn mẹ thì chạy thoát. Người thầy hiểu ra, nhưng sự việc đã rồi.
Đêm đến, đang ngồi đọc sách thì ông nghe có tiếng sột soạt trên mái nhà, nhìn lên thấy 1 con rắn đang bò theo đòn tay, đến chỗ ông ngồi, rắn nhỏ xuống 1 giọt máu rồi trườn đi mất. Giọt máu rơi ngay chữ “Đại” của trang sách đọc và thấm đến 3 tờ. Tin rằng rắn sẽ báo oán, ông đã mất ăn mất ngủ nhiều ngày.
Thời gian trôi đi, người cháu nội của ông là Nguyễn Trãi lúc này đã theo phò Lê Lợi đánh đuổi xong giặc Minh và trở thành một bậc công thần của triều đình. Nguyễn Trãi gặp và lấy Nguyễn Thị Lộ làm thiếp. Thị Lộ là người đàn bà rất đẹp và có tài văn chương nên được vua Lê Thái Tôn rất yêu, cho gọi vào cung phong làm Lễ nghi học sĩ và cho “ngày đêm hầu hạ bên cạnh”. Tháng 8/1442 (27/7 Nhâm Tuất), vua đi tuần miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự ở chùa Côn Sơn. Ngày 4/8 Nhâm Tuất vua đi chơi ở vườn Vải, làng Đại Lại, huyện Gia Định ven sông Thiên Đức, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi băng. Triều đình buộc tội Thị Lộ giết vua. Ngày 16/8 Nhâm Tuất (19/9/1442), “giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ lẽ là Nguyễn Thị Lộ, giết đến 3 đời.” (Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Văn hóa thông tin - 2004 (ĐVSK)). Đây được biết đến là vụ án Lệ Chi viên nổi tiếng trong lịch sử.
Người ta đồn rằng, Thị Lộ chính là con rắn bị mất con năm nào nay hóa thành để trả thù. Giọt máu rơi vào chữ “Đại” thấm đến 3 trang giấy ứng với họa “tru di tam tộc” mà Nguyễn Trãi phải thọ lãnh. Và nữa, khi bị mang ra hành hình, Thị Lộ đã xin được ra sông tắm gội lần cuối và bất thần hiện nguyên hình rắn tinh, lẩn xuống sông thoát mất.
Mãi 22 năm sau, năm 1464, Nguyễn Trãi mới được vua Lê Thánh Tôn xuống chiếu giải oan, truy tặng tước Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát đối với gia quyến ông và cho tìm hậu duệ còn sót lại của Nguyễn Trãi để bổ dụng. Vua cũng truyền cho sưu tầm di cảo thơ văn ông…
***
Nguyễn Trãi thì được minh oan, nhưng Nguyễn Thị Lộ thì không hề nghe nhắc đến. Phải chăng vì thế mà chuyện “rắn báo oán” vẫn cứ quẩn quanh trong dư luận? Thời hiện đại, có lẽ chẳng ai còn tin vào chuyện rắn tinh hoang đường như thế, cho nên phải đến lúc cũng cần… giải oan cho rắn.
Sau này các nhà nghiên cứu tin rằng, cái chết oan nghiệt của Nguyễn Trãi và những người thân là hệ quả của nạn tranh quyền đoạt lợi chốn cung đình mà ra. Nguyễn Trãi vốn trực tính, và quá trình làm quan tất nhiên khó tránh chuyện “gây thù chuốc oán” với người này kẻ khác trong triều, nhất là đối với những người mà quyền lợi đã bị cái trực tính của Nguyễn Trãi cản trở.
“Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” - Ai cũng biết Nguyễn Trãi là một trong những bậc khai quốc công thần của triều hậu Lê. Sau khi kháng chiến chống Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi đã được xét công ban thưởng, phong tước Quan phục hầu và được ban quốc tính thành Lê Trãi. Nhưng cũng ngay sau ngày kháng Minh thắng lợi, khi đã có đất nước trong tay thì ngay đời vua khai triều đã âm ỉ cuộc ganh đua tranh đoạt giữa các phe phái, ngay cả vua Thái Tổ cũng bắt đầu “đa nghi hay giết” (ĐVSK) nên quần thần người thì bị bức tử, kẻ thì rớt chức, bị lưu đày… Trường hợp Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi gièm pha, dần dần không được tin dùng. Đến nỗi khi Lê Thái Tổ băng, Nguyễn Trãi vâng mệnh phụng viết văn bia Vĩnh Lăng, lạc khoản chỉ còn ghi “Vinh lộc đại phu, Nhập nội hành khiển tri Tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn”. Tam quán sự được biết là chức vị khiêm tốn, cả đặc ân quốc tính vua ban cũng không được ghi vào, cho thấy vị thế của ông trong chốn triều đình đã chông chênh đáng kể. Để rồi đến 1437, Nguyễn Trãi phải xin từ quan hồi hưu tại Côn Sơn.
Đến năm 1439, Lê Thái Tôn mới lại vời ông ra làm quan, khôi phục gần như hầu hết chức danh và tước hiệu cho ông.
Khi Nguyễn Trãi cáo quan hồi hưu, triều thần có những kẻ thở phào, xem như nhổ được cái gai trong mắt. Nhưng chỉ 2 năm sau, sự trở lại của Nguyễn Trãi tất nhiên khiến cho những kẻ kia phải lồng lộn ganh ghét vì nguy cơ bị cạnh tranh, bị cản trở những cơ tâm toan tính của họ. Và phải chăng cái họa “Lệ Chi viên” cũng bắt đầu từ đó?
Với cái nhìn thời nay, chuyện rắn hóa tinh, rắn báo oán không nói thì ai cũng biết đó là chuyện hoang đường, khó tin. Sở dĩ nó vẫn được cố tình cho lưu truyền có thể là do ý chí của giới cầm quyền lúc ấy muốn như vậy để xóa mờ một “vụ án” chẳng mấy hay ho, nếu không muốn nói là một vết nhơ của triều đại mà thôi. Việc “vua thức suốt đêm với Thị Lộ rồi băng”, có người đã nói trắng phớ là do vua bị chứng “thượng mã phong” nên chết! Ngay ĐVSK - Bộ sử được Ngô Sĩ Liên, một vị sử quan làm việc trong Sử quán dưới thời vua Lê Thánh Tôn biên soạn cũng hạ bút “không nể nang” về tiên đế Thái Tôn: “…là bậc vua giỏi thủ thành. Song ham mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở ngoài, là tự mình làm vậy”. ĐVSK cũng nói rõ mối quan hệ giữa vua với Thị Lộ: “...Trước đây vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, người đẹp, văn chương hay, gọi vào cung cho làm Lễ nghi học sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh…; Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tôn trông thấy thích lắm, cùng với Thị Lộ cợt nhả…”. Cái chết của vua có thể có một phần lỗi do Thị Lộ không biết “giữ mình”. Nhưng thử hỏi dưới thời quân chủ, ai có thể giữ mình nếu một khi đã “được” vua thích?! “Ham mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở ngoài, là tự mình làm vậy” - Ngay chính sử cũng đã nhận định như vậy, cho nên giải oan cho Nguyễn Trãi mà bỏ quên Thị Lộ là không công bằng, còn đổ cho rắn báo oán cũng là… oan cho rắn.
***
Xung quanh vụ án vườn Vải, cũng có thuyết quy cho Thái hậu Nguyễn Thị Anh. Bởi trước đây, bà Thái hậu này muốn hãm hại mẹ con một bà phi của Thái Tôn là Ngô Thị Ngọc Dao để chắc suất cho Thái tử Bang Cơ (con bà Nguyễn Thị Anh) nối ngôi. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đã cứu được mẹ con bà Ngọc Dao thoát đi nên bị Thái hậu Nguyễn Thị Anh trả thù. Vậy nhưng nghiên cứu ĐVSK, thấy chép Tuyên Từ Thái hậu (tức Thái hậu Nguyễn Thị Anh) “yêu Thánh Tôn như con đẻ”; Thánh Tôn sau khi lên ngôi cũng đối xử với mẹ con Thái hậu Nguyễn Thị Anh rất trọng hậu: “…làm lễ phát tang cho Nhân Tôn và Thái hậu. Ngày Tân Mùi, làm lễ cáo miếu đem Nhân Tôn lên thờ phụ. Ngày Quý Dậu, rước kim sách dâng tôn hiệu cho Nhân Tôn làm Khâm Văn Nhân Hiếu Tuyên Minh Hoàng đế; dâng tên thụy cho Thái hậu là Tuyên Từ Nhân Ý Chiêu Túc Hoàng Thái hậu”. Nếu Thái hậu Nguyễn Thị Anh quả có dã tâm với mẹ con Thánh Tôn và với Nguyễn Trãi (người đã cứu mẹ con Thánh Tôn), thì liệu vua có dành cho mẹ con họ những tình cảm và ứng xử như vậy? Cho nên, bên cạnh nỗi oan của Nguyễn Trãi - Nguyễn Thị Lộ, liệu có thêm nỗi oan của Tuyên Từ Thái hậu Nguyễn Thị Anh?
Gần 600 năm đã trôi qua, một độ lùi lịch sử đã đủ dài, chúng tôi đã từng và bây giờ vẫn mong các nhà nghiên cứu bỏ chút tâm sức khảo cứu, hầu có kết luận cho bản chất của nghi án này. Tiếc là cho đến nay vẫn chưa có thêm thông tin gì mới.
Ngày xuân chắp nhặt đôi dòng, cũng là để nối dài thêm hy vọng…