Phạm Công Trứ - Ông thơ lục bát tuổi Tỵ
Tôi chưa nhớ ra là mình đã đọc thơ lục bát của Phạm Công Trứ từ bao giờ, mà coi việc này như một cái mốc vậy, số là: năm 1999 tôi ra được cuốn sách thứ ba - 'Kể chuyện tác gia văn học nước ngoài', bán được vài ba nghìn bản trong 6 tháng, thì một hôm, có người hẹn gặp 'để được biết về Phạm Công Trứ'.
Người hẹn là một cô giáo. Đoạn đối thoại đầu tiên của chúng tôi thế này:
- Ông, à, anh thôi, anh đọc nhiều nên mới kể chuyện tác gia văn học nước ngoài hấp dẫn vậy, chắc là anh quen thân nhà thơ Phạm Công Trứ chứ?
- Vâng, tôi có đọc thơ ông Trứ, nhưng chưa quen ông ấy.
- Thì anh có quen biết, gặp gỡ được mấy ông nước ngoài xa tít mù tắp đâu, mà vẫn viết về họ đấy thôi… Anh hiểu "Lời thề cỏ may" là thế nào? Thề thì phải sắt son chứ, thề cỏ may là gió đưa lời bay đi, hoặc thấy vướng víu thì người ta sẽ phủi như phủi bụi bẩn ở gấu quần. Em không hiểu tại sao nhà thơ lại viết thế!
Vậy là chúng tôi quen nhau nhờ ông Phạm Công Trứ, nhất là ở câu này của cô gái: “Ông Trứ là người Việt chính cống ở ta thời nay, anh đừng nói quấy quá là chưa quen ông viết "Lời thề cỏ may" này để tránh em nhé!”.
Vâng, điệu ngôn của lục bát Phạm Công Trứ quả là được cộng hưởng rồi. Tôi về quê mẹ, vừa chớm vào chợ Rồng, ngó chợ Mỹ Tho, đã nghe lốc cốc tiếng mõ chùa; đi quãng nữa, đã thấy vang lên tiếng thánh ca, miên man bến phà (nay là cầu) Đò Quan chưa kịp chạm mắt đến mênh mang xanh vàng của các thôn làng quê cụ Đoàn Văn Cừ, mà mới ngẩn ngơ với Nam Vân quê Nguyễn Đức Mậu, đã loáng thoáng trong tai lời hát "Làng tôi xanh bóng tre"… với những tiếng chuông ban chiều, tiếng chuông nhà thờ rung của Văn Cao… lẫn trong trường thơ Phạm Công Trứ, như là:
Em đi để lại tiếng cười/ Trong tôi vỡ một tiếng cười pha lê/ Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ "Lời thề cỏ may"…
rồi lại: Trên đò các cụ đọc kinh/ Chúng mình trẻ quá, chúng mình “tụng” nhau… với cả: Mẹ cha tát nước đầu đình/ Đẻ ra cả lũ đa tình hay quên…
Rất chi là luyên thuyên, nay ngẫm thêm, tạo ra cái luyên thuyên dầu dãi ở người đọc thơ rồi nhớ thơ ấy, lại chính là sự nghiêm cẩn chỉn chu trong ý và lời, qua cả vần vè chắc tay của Phạm Công Trứ, như mấy dòng này nữa:
Cỏ may giăng tím triền đê
Một đêm trăng sáng có về cùng tôi
Ngỡ là gỡ cỏ mà chơi
Ai ngờ duyên số thề bồi với nhau
Tôi đi, cỏ cũng lên tàu
Tôi vào khoa Luật, cỏ vào công viên
Tôi thì điều khoản triền miên
Cỏ thì giăng mắc những miền phồn hoa.
Có mấy lần tôi nói với ông trẻ Kienlucbat và mấy người đang ngồi quanh chiếu rượu rằng: Nguyễn Bính và Văn Cao… rồi ông Vũ Quần Phương, ông Nguyễn Đức Mậu, ông Trần Mạnh Hảo… đến ông Trứ, ông Kiên với cả các ông đang sinh hoạt trong mấy câu lạc bộ thơ lục bát quê ta có chủ trì một chương trình giao lưu thơ Lục bát Việt Nam thì đích đáng lắm, để làm gì ư? Xin thưa: để, trước là tạ ơn phong thủy, khí chất khí cốt quê nhà ta đã biến hóa các ông thành những nhà lục bát bẩm sinh…, sau nữa, cũng là giúp cho làng thơ Việt ta có thêm một diễn đàn vui vẻ mà “có chất lượng phong trào sáng tác thật sự”.
Biết tôi có ý đề nghị này, nhiều người bảo: Phải đấy, nên làm. Riêng Phạm Công Trứ trầm ngâm:
- Tôi chỉ biết sáng tác…
- Nhưng ông cũng là Phó Giáo sư - Tiến sĩ… ông còn là nhà báo, quan hệ rộng từ cái gốc là thơ hay, tính tình nhuần nhặn…
- Cảm ơn ông có nhời, giáo sư hay tiến sĩ cũng phải biết tổ chức, vâng, tổ chức và quản lý khoa học thì có thể, còn tổ chức phong trào văn nghệ thì tôi vụng lắm, hay ông gặp bác Vũ Quần Phương, bác Nguyễn Đức Mậu mà bàn đi; rồi nữa, chú Nguyễn Thế Kiên cũng hoạt náo được đấy… Ở phải rồi, ông Trần Mạnh Hảo với cả Trương Nam Hương kia kìa.
Nghe Phạm Công Trứ điểm danh thế, tôi cứ nghĩ: Ông Trứ thường đọc các bạn thơ thật nhiều. Sau cái vẻ bề ngoài như đã chớm vào cảnh ngại việc “ngoài chuyên môn” của người vào tuổi 60, thì ông Trứ dứt tình với "Lời thề cỏ may" hay vẫn viết đây? Hoặc lại ngồi soạn tuyển tập như ai? Ấy là ý nghĩ của tôi khi tác giả "Lời thề cỏ may" (4 tập) đã lót ổ vững vàng và đơm hoa kết trái tự nhiên trong làng thơ Việt, cũng là lúc ông Trứ đang dần cho xuất bản trọn bộ "Phồn thi" (3 tập), tất cả 7 tập thơ này quả nhiên, đã là sự kiện ghi dấu một phong cách thơ, một bản lĩnh sống vững vàng, và vì thế có sức trụ lại, gây/ tạo ra ảnh hưởng thực sự với bạn nghề, với cả công chúng các lứa tuổi rồi.
Tôi nói là Phạm Công Trứ đã vững, không chỉ ở phương diện sáng tác, mà cả ở các lĩnh vực khác, có ai gợi ý hay rủ rê ông cố tí, làm thêm, ông chỉ ậm ừ, rồi quay ra kêu là bận rộn, với bệnh tật đang rình rập, hoặc lại tự nhận là “mình lười lắm”, “tôi chả biết làm gì ngoài thơ và đi dạy”. Thế là thoát. Đã có người thắc mắc: Phạm Công Trứ được đào tạo để hành nghề luật sư - một kiểu dạng người của công chúng, thế mà tránh/ trốn vậy là sao?
Người viết bài này, với chút ngẫu hứng ngẫu cảm ngày đón Tết, với cả chút trầm lắng của tiết cuối năm nhiều ngẫm ngợi thì muốn cho rằng: một là, cái cách trốn tránh của nhà thơ viết "Lời thề", rồi lại "Phồn thi" chắc là có nguồn gốc từ cách sống của các cụ Đồ, các bậc túc Nho xứ Sơn Nam hạ mấy trăm năm trước; hai là, sau bao nhiêu lần, dâng ra không biết bao nhiêu vần lục bát “Nhặt ở bờ rào” như ngẩn ngơ, như xác quyết giữa cảnh "Làng phố giao duyên"… thì ông tự ngợp với chính mình, lại càng ngộp trước cảnh bừng bừng viết và in của thập loại chúng thơ… nên đành thế vậy chăng?
Tôi muốn lưu ý thêm: Phạm Công Trứ vững ngay từ thuở mới nhập làng thơ Việt, rồi càng viết, trường thơ ông càng rộng và có sức gợi, sức ám ảnh đa chiều kích; theo đó ngữ điệu giọng điệu thơ ông cũng biến hóa trong sự ổn định. Thế là thực tài, không thể không nên bàn thêm.
Nhưng có chuyện này - là tôi thấy mà suy chứ không dám đoán định gì, là: khi đọc lại các bài đã quen của Phạm Công Trứ trong tập sơ tuyển thật dày dặn trên 750 trang, tôi nghĩ rằng: cùng lứa thơ với ông, và cả trước ông dăm mười năm, thì có ai làm tuyển thơ dày dặn được thế! Dày và nhiều, mình đọc mấy chục năm nay rồi, mà phần thú vị, hưng phấn vẫn khá dồi dào, bồng bột; đặc biệt, trong tập này, khi chia ra thành 12 chùm thơ, mỗi phần có tên riêng là Cỏ, Phồn, Tình, Linh, Mùa, Nhi, Luật Triết, Nghệ, Sự, Xỏa, Lão, nhà thơ lại có một bài/ đoạn có nội dung như tiểu dẫn, được viết ra ngay thật mà ý tứ thâm thúy, lời lẽ khiêm dung, điệu đà rất nghệ sĩ.
Cách làm tuyển này chứng tỏ nhà thơ - soạn giả cũng công phu lắm, vì thế, hiệu quả hòa nhập rất rõ.
Tôi định hỏi nhà thơ rằng: sau cái sơ tuyển này thì tiếp nữa là những gì?
Chưa kịp nói, bởi còn lăn tăn, tôi đã thấy Phạm Công Trứ nhoài người về phía tôi, chân quài ra muốn bước rồi chợt ngồi ngay ngắn lại, vẻ hào hứng mà giọng trầm trầm đủ nghe, rằng: đang bị ám, đầu lục bục, hay mê ngủ, cũng gặp ma nữa…
- Lang bang lục bục phiêu phiêu thế, mà ông cũng đừng nghĩ là “giời đày”, ông cứ tin là bạn thơ và người đọc vẫn chờ mong ông đi. Thật đấy.
Gương mặt, mái tóc bạc húi cao gọn và cả cái nhìn cùng ánh mắt của nhà thơ như bừng sáng hơn lên, Trứ bảo: Muốn về quê thăm thú mà bắt đầu ngại rồi ông ạ, rồi ông lại miên man kể, hào hứng nói mà không đọc thơ như dạo nào. Tôi vừa nghĩ vừa ngẫu hứng đọc: Lão phu bất khả thụy/ Mộng mị Đạm Tiên ma/ Khốc Thúy Kiều tại thế/ Độc ẩm tiểu sơn hà. Nhà thơ nghe, vẻ chăm chú và ngỡ ngàng, xa vắng… rồi trầm lắng trở lại. Ông buột miệng “Ờ nhỉ…”. Cái buột miệng này rõ là không kiểu cách như ai trong hoàn cảnh tương tự.
Phạm Công Trứ điềm nhiên trở lại. Chúng tôi cùng nhìn ra ban công, nơi ông và bà vợ trồng khá nhiều cây dây leo, cây bóng mát. Có một làn gió nhẹ thoáng qua.
Tôi nắm tay ông bạn. Tay nhà thơ to mà ấm mềm trong tay tôi.
Nhà thơ Phạm Công Trứ, nguyên Trưởng bộ môn Luật lao động Trường Đại học Luật Hà Nội, Trưởng ban Nội chính Báo Pháp luật Việt Nam trực thuộc Bộ Tư pháp.
Hội viên Hội Luật gia Việt Nam.
Năm 1990, Phạm Công Trứ từ Liên Xô trở về nước khi bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Năm 2003, ông vinh dự được Nhà nước phong tặng học hàm Phó Giáo sư. Ông có thời gian dài công tác tại Báo Pháp luật Việt Nam và tham gia hội đồng sau đại học tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Ông đã hướng dẫn nhiều giáo viên bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Với những đóng góp cho xã hội, ông đã được Nhà nước trao tặng nhiều giải thưởng cao quý.
Năm 2013, ông nghỉ hưu và về làm cố vấn cấp cao cho Công ty Luật TNHH An Trí Việt.