Nuôi cá vùng đất trũng
Với đặc thù là xã vùng trũng, nằm ven dải đất sông Đà, nhiều năm nay, người dân xã Sơn Thủy, huyện Thanh Thủy đã khai thác tiềm năng, thế mạnh của tự nhiên để phát triển nghề nuôi trồng thủy sản. Thành công lớn nhất ở đây là tạo được quy trình tuần hoàn khép kín từ sản xuất con giống đến khi cung cấp các sản phẩm cá thương phẩm cho thị trường, tiêu thụ ở khắp các tỉnh, thành...

Những ao nuôi thủy sản ở xứ đồng Tư Điền, xã Sơn Thủy được đầu tư, kè bờ chắc chắn kết hợp sử dụng máy tạo ôxi cho hiệu quả kinh tế cao.
Từ chuyện con cá giống...
Về xã Sơn Thủy vào những ngày đầu tháng Ba, dẫn chúng tôi đi thăm xứ đồng Tư Điền, anh Nguyễn Sơn Nam - cán bộ khuyến nông xã chỉ tay ra cánh đồng phía trước với những ao nuôi phân ô vuông vắn, kè bờ chắc chắn, hồ hởi khoe: “Xứ đồng trũng Tư Điền “chiêm khê mùa thối” xưa kia giờ đã “thay da đổi thịt”. Nhiều hộ đã đầu tư cả trăm triệu đồng xuống đây. Có hộ thu lãi cả tỷ đồng trên xứ đồng này mỗi năm”.
Khi hỏi về nghề ương nuôi cá giống ở đây, ông Nam cũng như nhiều người dân địa phương chẳng ai biết nghề có từ bao giờ, chỉ biết cha truyền con nối, người này học hỏi người kia, dần dần ai cũng thành thạo kỹ thuật, nên khá yên tâm về chất lượng đầu vào.

Các hộ nuôi thủy sản ở xã Sơn Thủy sử dụng máy cho ăn tự động nhằm tiết kiệm thời gian chăm sóc.
Qua nhiều thế hệ gắn bó với đồng chiêm trũng, người dân ngày càng tích lũy kinh nghiệm, kiến thức về ương nuôi giống thủy sản. Cộng thêm sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự đầu tư máy móc thiết bị, thức ăn và cách phòng trừ dịch bệnh bằng men vi sinh, nghề ương cá giống cũng dần hạn chế được rủi ro, tỷ lệ sống cao hơn.
Dừng chân tại trại nuôi cá giống của anh Nguyễn Văn Long, ở khu 1 - một trong những hộ đi tiên phong trong áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong ương giống thủy sản, ngồi bên chiếc bàn đá nhỏ giữa xứ đồng Tư Điền, trong căn nhà cấp bốn xây tạm cạnh trại cá, chúng tôi cảm nhận được rõ mồn một từng cơn gió mát lạnh từ cánh đồng thổi vào. Nghe anh Long chia sẻ về thời vụ ương cá giống: “Thông thường mọi năm nghề làm cá giống sản xuất 2 vụ chính vào tháng 2 và tháng 8 (âm lịch), song thời gian gần đây, người dân chuyển sang nuôi thâm canh, gối vụ nên nhu cầu giống cần nhiều hơn. Năm nay, tôi đã nhân rộng, sản xuất thêm vụ mới vào tháng 6 để cung cấp giống cho các hộ có nhu cầu. Hiện nay, 12 ao nuôi chuyên làm giống cá chép đã vào vụ, chờ thời tiết nắng ấm, sẽ xuất bán”.
Được biết, trung bình mỗi năm, trại giống của anh Long xuất bán ra thị trường khoảng 60 tấn cá chép giống, đủ các loại kích thước, từ loại nhỏ hàng nghìn con/kg đến kích thước giống to 8-10 con/kg.
Thời xưa, ương nuôi cá giống được biết đến là nghề tỉ mỉ, chăm chút như nuôi con mọn, nhưng giờ đây, nghề ương nuôi cá giống đỡ nhọc nhằn, vất vả hơn, chỉ cần nhấc điện thoại là có cám, thuốc phòng trị bệnh, thậm chí có cả tư vấn kỹ thuật miễn phí. Mùa thu hoạch cá giống cũng chẳng mất công sức đi bán, lái cá vào tận ao nuôi lấy hàng.
Qua thời gian số hộ ương nuôi thủy sản có xu hướng giảm nhưng chẳng thế mà nghề mai một, số hộ còn làm nghề, đa phần đều nhân rộng, phát triển quy mô lớn, đầu tư kiên cố. Hiện toàn xã có khoảng gần 100 hộ duy trì nghề ương giống. Mỗi năm cung cấp ra thị trường trên 40 triệu con giống, trong đó 90% là giống truyền thống như: Chép, trôi, mè... và 10% là cá chép đỏ; đáp ứng 70% lượng cá giống nuôi của các hộ nuôi trong xã và 30% sản lượng cá giống của toàn tỉnh.
Từ chất lượng con giống được đảm bảo, phong trào nuôi thủy sản ở địa phương ngày càng trở nên sôi nổi, trở thành điểm sáng của huyện, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo bền vững.

Anh Nguyễn Văn Long (bên phải), ở khu 1, xã Sơn Thủy kiểm tra chất lượng cá giống.
...đến nuôi cá thương phẩm
Địa hình canh tác nông nghiệp chủ yếu là vùng trũng nên việc cấy lúa, trồng hoa màu ở Sơn Thủy không thuận lợi như các địa phương khác. Xã đã tạo điều kiện cho người dân tận dụng tối đa diện tích mặt nước để khoanh vùng, đắp bờ bao, đầu tư kè bờ, củng cố hệ thống kênh mương nhằm chủ động nguồn cung ứng nước cho hệ thống các ao nuôi và kịp thời tiêu thoát nước vào mùa mưa. Từ đó, Nhân dân tập trung nuôi các loại cá thương hiệu sạch và an toàn, triển khai các mô hình nuôi cá có giá trị kinh tế, theo hướng sản xuất hàng hóa.
Đồng chí Nguyễn Tiến Diện - Phó Chủ tịch UBND xã cho biết: Thời gian qua, xã tiến hành rà soát lại quỹ đất sản xuất nông nghiệp để xây dựng kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện sẵn có và tiềm năng của địa phương, đặc biệt là chú trọng công tác quy hoạch các xứ đồng trũng cấy lúa kém hiệu quả để chuyển đổi sang phát triển sản xuất cá giống và tạo điều kiện mở rộng mặt bằng nuôi thả cá cho các hộ có nhu cầu. Xã cũng đã phối hợp với các cơ quan, đơn vị chuyên môn của tỉnh tổ chức tập huấn kỹ thuật, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm ương nuôi, chăm sóc, phòng, điều trị bệnh trên cá giống, cá thương phẩm cho bà con.
Toàn xã hiện có gần 2.300 hộ với trên 8.800 nhân khẩu ở 8 khu hành chính. Trong đó, số lượng hộ tham gia nuôi trồng thủy sản lên tới hơn 300 hộ, tập trung ở các khu 1, 3, 4, 5. Các hộ chủ yếu nuôi quy mô rộng từ vài nghìn m2 đến cả vài hec-ta. Đến nay, tổng diện tích nuôi thủy sản toàn xã là 238ha mặt nước, trong đó, nuôi trong ao là 80ha, còn lại là diện tích nuôi 1 lúa - 1 cá. Bình quân mỗi năm xã cung cấp ra thị trường khoảng 675 tấn cá thương phẩm.
Nhờ nuôi trồng thủy sản, nhiều hộ kết hợp nuôi vịt, lợn, trồng cây ăn quả đã cho thu nhập từ 100-200 triệu đồng/năm, góp phần nâng cao thu nhập bình quân đầu người dân trong xã, đến nay đã đạt trên 60 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn 2,3%. Nhiều hộ gia đình đã xây được nhà cao tầng kiên cố, mua được các tiện nghi sinh hoạt đắt tiền từ nuôi trồng thủy sản.
Rời xã Sơn Thủy, trong tiếng sóng nước vỗ vào các thành bê tông kiên cố từ các ao nuôi thủy sản dọc 2 bên con đường, đủ để thấy sự đầu tư, kỳ công thể hiện tâm huyết với nghề của người dân nơi đây. Dẫu vẫn biết nghề nuôi cá ở vùng đất trũng vẫn còn nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, cách phòng trừ dịch bệnh, chưa quy hoạch tập trung... song với sự nỗ lực của các cấp chính quyền và sự đồng thuận của người dân đang từng bước khắc phục, hướng tới mục tiêu xây dựng vùng sản xuất thủy sản quy mô lớn, có giá trị kinh tế cao của tỉnh.