Núi sông cửu đỉnh trên ấm tử sa

Âm vọng từ Cửu đỉnh

Lần đầu tiên họa tiết chín ngọn núi, chín dòng sông nổi tiếng được khắc trên cửu đỉnh thời Nguyễn của Việt Nam được khắc trên ấm tử sa.

“Nước Việt Nam là cội nguồn xuất tích cây trà và uống trà trong dân gian cũng như trong cung đình đều thể hiện văn hóa ẩm thực độc đáo, lâu đời của người Việt. Thú uống trà của các cụ từ xa xưa đã nâng tầm văn hóa Việt. Cũng uống trà, cũng dùng ấm đất tử sa Nghi Hưng nhưng vẫn không lẫn với văn hóa Trung Quốc. Để có được chén trà ngon, phải dùng cái ấm đất tốt, đó là sự lựa chọn thật tinh tế. Nhưng ta không chỉ biết dùng ấm đất tử sa tốt mà còn đặt những người thợ giỏi tại Nghi Hưng làm những chiếc ấm khắc thơ nôm, họa cảnh nước Việt. Đó là những chiếc ấm quý mang phong cách và hồn Việt”. Tâm đắc như vậy nên từ năm 2010, ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Giám đốc Công ty cổ phần 7P, chủ thương hiệu Đất Việt phú quý và Song Hỷ trà, bắt đầu hành trình ký kiểu hoa văn Việt Nam trên ấm tử sa. Và ông mang đến cho công chúng bộ sưu tập độc đáo: họa tiết núi sông cửu đỉnh.

Hữu duyên

Ý tưởng thực hiện bộ sưu tập đến với ông Tuấn rất tình cờ. Cuối tháng 5-2016, trong một buổi uống trà, thưởng ngoạn và đàm đạo về những chiếc ấm tử sa ký kiểu của ông Tuấn, sư thầy Tâm Hải ở báo Giác Ngộ hỏi: “Anh có nghiên cứu cửu đỉnh không? Tôi ở Huế nên tôi thấy nó rất hay”. Rồi thầy say sưa kể chuyện tạo tác cửu đỉnh, về hoa văn khắc trên cửu đỉnh như một bộ bách khoa thư của Việt Nam gồm thắng cảnh, muông thú, sản vật…

Câu chuyện bên bàn trà đã truyền niềm đam mê cho ông Tuấn, thế nên đầu tháng 6-2016, ông thu xếp từ TPHCM bay ra Huế để tham quan, khảo sát, chụp ảnh họa tiết hoa văn trên cửu đỉnh. Ở Huế, ông Tuấn gặp nhà văn Ngô Minh. Nói chuyện đang tìm hiểu về cửu đỉnh, ông Minh liền dẫn ngay ông Tuấn đến gặp ông Dương Phước Thu, tác giả cuốn sách Đất nước Việt Nam qua cửu đỉnh Huế (NXB Tri thức, Hà Nội, 2011). Lại thêm một lần ông Tuấn được truyền niềm đam mê cửu đỉnh. Và ông quyết tâm ký kiểu hoa văn cửu đỉnh trên ấm tử sa.

Đĩa sứ Phúc Lai Thành vẽ tay họa tiết cửu đỉnh. Ảnh: Hoàng Toàn

Đĩa sứ Phúc Lai Thành vẽ tay họa tiết cửu đỉnh. Ảnh: Hoàng Toàn

Sách Đất nước Việt Nam qua cửu đỉnh Huế giới thiệu kỹ càng nội dung và ý nghĩa của các hình khắc trên cửu đỉnh. Theo đó, trên mỗi đỉnh vua Minh Mạng cho khắc 17 cảnh và một họa thư. Họa thư là hai chữ Hán lớn là chữ đỉnh và một chữ tên đỉnh. Họa thư 9 đỉnh là: Cao đỉnh (Cao: thụy hiệu của vua Gia Long), Nhân đỉnh (Nhân: thụy hiệu của vua Minh Mạng), Chương đỉnh (Chương: thụy hiệu của vua Thiệu Trị), Anh đỉnh (Anh: thụy hiệu của vua Tự Đức), Nghị đỉnh (Nghị: thụy hiệu của vua Kiến Phúc), Thuần đỉnh (Thuần: thụy hiệu của vua Đồng Khánh), Tuyên đỉnh (Tuyên: thụy hiệu của vua Khải Định), Dụ đỉnh, Huyền đỉnh (Dụ và Huyền là thụy hiệu khi đó để trống, cuối cùng không trở thành thụy hiệu của vua nào).

Mỗi đỉnh có 17 cảnh sông, núi, mây, gió, hoa cỏ, cây trái… đặc trưng cho ba miền, tổng cộng 153 cảnh (1+5+3=9). Số 9 là tư tưởng chủ đạo của việc chọn cảnh của vua Minh Mạng. Tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9: 9 vì tinh tú và thiên nhiên trong vũ trụ là: mặt trời, mặt trăng, gió, sấm, mây, mưa, ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu; 9 ngọn núi lớn: Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Duệ, Đại Lãnh, Hải Vân, Hoành; 9 sông lớn: Bến Nghé, Hương, Gianh, Mã, Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, Lam, Hồng; 9 con sông đào và sông khác: Vĩnh Tế, Vĩnh Điện, Lợi Nông, Vệ, Phổ Lợi, Thao, Cửu An, Ngân; 9 cửa biển, cửa quan, biển, cầu vồng; 9 con thú lớn bốn chân; 9 con vật linh; 9 loài chim; 9 loài cây lương thực; 9 loại rau củ; 9 loại hoa; 9 loại cây lấy quả; 9 loại dược liệu quý; 9 loại cây thân gỗ; 9 loại vũ khí; 9 loài cá, ốc, côn trùng; 9 loại thuyền, xe, cờ. Tất cả những số 9 ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời Đại Nam hoành tráng.

Có thể xem những hình này như một bộ địa dư chí được ghi bằng ngôn ngữ tạo hình của nước ta ở thế kỷ 19, không đầy đủ nhưng điển hình, đúng như yêu cầu của vua Minh Mạng khi ban chỉ dụ bộ Công vào tháng 10 Âm lịch năm 1835: “Nay đúc đỉnh, khắc hình tượng sông núi và mọi vật cũng không cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để nhận biết”. (Đại Nam thực lục, chính biên)

Về ý nghĩa và nội dung các hình ảnh khắc, sách đã đi sâu nghiên cứu nguồn gốc và vị trí của hình ảnh trong sự nghiệp dựng nước của vương triều Nguyễn và sự thống nhất toàn vẹn của quốc gia Đại Nam. Ví dụ trên Cao đỉnh, đỉnh lớn nhất, đặt ở chính giữa, tượng trưng cho sự vĩ đại, có nhiều hình ảnh liên quan đến công cuộc mở cõi của các chúa Nguyễn như sông Bến Nghé (Ngưu Chữ giang), kênh Vĩnh Tế (Vĩnh Tế hà), núi Thiên Tôn… Núi Thiên Tôn ở phía Tây Bắc huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa - còn gọi là núi Triệu Trường có Gia Miêu ngoại trang, là nơi phát tích vương triều Nguyễn với 9 chúa 13 vua, nguyên quán của dòng họ Nguyễn Phúc, có lăng Triệu Tổ Nguyễn Kim và lăng Đức Bà (vợ Nguyễn Kim)...

Nhưng trên cửu đỉnh có tổng cộng 153 họa tiết hoa văn, chọn cái nào? Suy đi tính lại, ông Tuấn quyết định chọn chín cảnh núi: Thiên Tôn (Cao đỉnh), Ngự Bình (Nhân đỉnh), Thương - còn gọi là núi Kim Phụng (Chương đỉnh), Hồng - còn gọi là núi Hồng Lĩnh (Anh đỉnh), Tản Viên (Thuần đỉnh), Đại Lãnh, Duệ (Tuyên đỉnh), Hải Vân (Dụ đỉnh), Hoành (Huyền đỉnh); chín cảnh sông: Bến Nghé (Cao đỉnh), Hương (Nhân đỉnh), Gianh (Chương đỉnh), Mã, Lô (Anh đỉnh), Bạch Đằng (Nghị đỉnh), Thạch Hãn (Thuần đỉnh), Lam, Hồng (Tuyên đỉnh), Vĩnh Điện (Dụ đỉnh). Đây đều là những ngọn núi, dòng sông uy nghi, hiển linh được liệt vào hàng danh sơn, danh hà có ghi chép trong điển thờ và hàng năm các vua nhà Nguyễn đều phái các quan sắm lễ mang đến tế thần cầu quốc thái dân an.

Chọn được họa tiết, ông Tuấn chụp ảnh từng hình một rồi mang về TPHCM đưa chị Kiều Minh Ý, họa sĩ thiết kế của công ty, để vẽ phác thảo. Tiếp đó, tháng 9-2016, ông Tuấn mang tập phác thảo sang Nghi Hưng (thành phố Vô Tích, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) để tìm người ký kiểu. Người em kết nghĩa của ông Tuấn ở Nghi Hưng là Tào Thủ Trung nghe ông Tuấn đề đạt nguyện vọng liền hồ hởi giúp sức. Hai anh em sàng lọc tìm ra một danh sách các nghệ nhân phù hợp rồi tìm đến từng người để trình bày ý tưởng sản phẩm. Ròng rã suốt mấy tháng ròng, cuối cùng họ quyết định chọn mặt gửi vàng hai người: nghệ nhân làm ấm Châu Vỹ Quang(*), họa sĩ vẽ trên ấm Hồ Cao Hóa. Họ chọn đất đại hồng bào vì đất này màu đỏ tươi nên khi đắp nổi họa tiết lên thân ấm sẽ rất nổi bật mà tổng thể vẫn hài hòa.

Làm được một chiếc ấm tử sa rất khó, một chiếc ấm trơn (không hoa văn), nghệ nhân cũng đã phải trải qua 63 thao tác kỳ công, chia làm năm giai đoạn công phu. Xong phần thân ấm, nghệ nhân Hồ Cao Hóa mới lấy năm chiếc xi lanh, bơm năm màu đất (đỏ, vàng, xanh lục, xanh lam, tím) vào rồi ngồi tỉ mỉ vẽ lên thân ấm như người ta làm bánh kem để hoa văn nổi mảng trên thân ấm. Xong xuôi, phơi khô rồi cho ấm vào lò nung với nhiệt độ 1.200 độ C trong mười giờ. Tắt lửa, lại chờ 23 giờ sau cho nguội rồi khai lò. Sau bao nhiêu hồi hộp trông đợi, mở lò ra thì thấy ấm… hỏng. Mấy chục đôi mắt trân trối, mấy chục trái tim thắt nghẹn. Ngồi phân tích, nhóm nhận ra nguyên nhân là những mảng đất màu đắp nổi lên thân ấm không ăn. Độ co ngót của các loại đất khi nung khác nhau nên những họa tiết đắp trên thân ấm bị rộp. Thế nên nói làm mỗi một chiếc ấm là một lần thử thách là như vậy.

Hiểu rõ nguyên nhân thất bại, các nghệ nhân lại bắt tay vào sửa sai, tìm loại đất khác, pha chế khác… để thân ấm và họa tiết tìm được tiếng nói chung. Đầu năm 2017, họ làm lại chiếc thứ hai thì thành công. Khi đã làm chủ được kỹ thuật, tháng 3-2017, ông Tuấn và những người cộng sự bắt đầu quá trình làm bộ sưu tập. Từ 18 dáng ấm dự định, họ rút lại còn chín dáng, dung tích ấm từ 150-180 mi li lít. Ngoài ra ông Tuấn còn đặt làm thêm sáu chiếc chén, ba chiếc dùng uống trà mùa hè (chén to, thấp, miệng loe), ba chiếc dùng uống trà mùa đông (chén nhỏ, cao, miệng khum). Để trừ hao, họ làm mỗi ấm năm chiếc, chọn ba chiếc nung, nung xong chọn một chiếc ưng ý nhất, số còn lại thì đập bỏ. Thế nên mỗi chiếc ấm, chén đều là độc bản. Tháng 12-2017, mọi công việc hoàn tất, bộ sưu tập ấm tử sa ký kiểu họa tiết núi, sông trên cửu đỉnh viên thành, bảo đảm “ấm trà tinh xảo, hương trà ngát thơm” như yêu cầu của ấm tử sa - nghệ thuật trên bàn trà.

Tích hợp văn hóa

“Đồ uống trà không gì tuyệt diệu bằng ấm tử sa, mà vùng Dương Tiện là hạng nhất”. Tâm đắc với nhận xét của Lý Ngư (1611-1680), nhà văn - nhà hí kịch người đời Thanh, Trung Quốc nên ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Giám đốc Công ty cổ phần 7P, bắt đầu bén duyên với ấm tử sa từ năm 2003. Đầu tiên ông sang Nghi Hưng (thành phố Vô Tích, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) mua ấm mang về nhà ở TPHCM trưng bày, thưởng trà. Rồi bạn bè, người thân đến chơi, thấy đẹp nên hỏi mua, nhờ đặt hàng giúp, thế là thành nghề, nên nghiệp từ năm 2004.

Duệ sơn khắc trên Tuyên đỉnh. Ảnh: Đỗ Quang Tuấn Hoàng

Duệ sơn khắc trên Tuyên đỉnh. Ảnh: Đỗ Quang Tuấn Hoàng

Dăm ba tháng một lần, ông sang lò của các nghệ nhân tiêu biểu nơi đất Nghi Hưng để chọn ấm, chén, khay, bàn, tượng người, muông thú rồi mang về chia sẻ niềm vui với những người cùng sở thích. Năm 2010, khi Vincom Center (TPHCM) khai trương thì ông thuê gian hàng để mở rộng kinh doanh và nâng lên thành một chuỗi cửa hàng bán trà cụ tử sa. Nhân dịp này, ông nghĩ không lẽ mình chỉ đơn thuần đi nhập hàng về bán, phải sáng tạo, phải thổi hồn Việt Nam vào sản phẩm. Non nước Việt Nam có biết bao kỳ quan, tại sao không tôn vinh chúng trên trà cụ.

Tháng 11-2011, ông Tuấn bắt đầu ra mắt dòng sản phẩm này. Đến năm 2012, ý tưởng được nâng lên một cấp, ông Tuấn mời họa sĩ Đỗ Sơn Huy ký họa bút sắt tranh phong cảnh Việt Nam: chùa Một Cột, tháp Rùa, vịnh Hạ Long, chợ Bến Thành, cầu Trường Tiền, chân dung Nguyễn Trãi, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Tuân… mang sang Nghi Hưng, các nghệ nhân đồ lại lên thân ấm.

Năm 2013, đề tài mở rộng thêm các bộ sưu tập tranh dân gian Đông Hồ (bốn mùa, tố nữ). Năm 2014, ông Tuấn mời nhà thư họa Nguyễn Đình Thuần (Như Thuần, Thuần Phong bút) viết thư pháp chữ Việt chữ mộng, tâm; mời nhà sư Nhuận Thường vẽ con rồng thời Lý, viết thư pháp chữ Việt: trà mộng, thiền trà nhất vị; mời nhà thiết kế Kiều Minh Ý đồ họa trên máy vi tính chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, đại tướng Võ Nguyên Giáp… để trang trí lên thân ấm. Trung bình, mất từ 3-6 tháng từ lúc có ý tưởng ký kiểu đến lúc sản phẩm hoàn thiện về đến tay khách hàng ở Việt Nam. Người đam mê sưu tầm có thể bỏ ra từ mười đến vài trăm triệu đồng để sở hữu một chiếc ấm độc.

Theo ông Tuấn, việc ký kiểu này tích hợp được nhiều hàm lượng văn hóa vào một sản phẩm. Bản thân chiếc ấm, chén đã là một tác phẩm; tranh, chữ để khắc lên ấm là một tác phẩm. Người làm có một tâm hồn, người đặt có một tâm hồn. Thế nên một chiếc ấm, chén uống trà chuyên chở biết bao nhiêu tâm hồn đồng điệu của đất và người, của những nền văn hóa.

(Mời xem từ Bài 1: Tranh khắc gỗ, áo dài thuê, vẽ gốm sứ trên KTSG số 19-2025, phát hành ngày 8-5-2025).

(*) Nghệ nhân làm ấm tử sa Châu Vỹ Quang, sinh năm 1966, nghệ nhân mỹ nghệ cấp quốc gia của Trung Quốc, kinh nghiệm 30 năm làm ấm, học trò của công nghệ mỹ thuật sư Cố Đạo Vinh. Châu Vỹ Quang có kinh nghiệm thâm hậu, chọn nguyên liệu kỹ, chế tác tinh tế nên tác phẩm tinh xảo, độc đáo, thanh nhã, hình dạng và tinh thần trọn vẹn nên các tác phẩm của ông luôn được công chúng nhiệt tình đón nhận, say mê tán thưởng.

Đỗ Quang Tuấn Hoàng

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/nui-song-cuu-dinh-tren-am-tu-sa/
Zalo