Nợ xấu ngân hàng qua 'lăng kính' danh mục cho vay
Theo các chuyên gia, khác biệt trong danh mục cho vay của các ngân hàng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa về biên lãi thuần (NIM) và tỷ lệ nợ xấu (NPL) ở các nhóm ngân hàng: ngân hàng gốc quốc doanh, ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp , ngân hàng chuyên cho vay cá nhân và nhóm các ngân hàng khác…
Tín dụng ngân hàng đang chảy vào đâu?
Tùy vào chiến lược kinh doanh riêng mà mỗi ngân hàng có một danh mục cho vay đặc thù, trong đó tập trung vào các đối tượng cho vay (doanh nghiệp hoặc cá nhân) và ngành nghề có tỷ trọng cho vay lớn (công nghiệp, thương mại dịch vụ, xây dựng hay bất động sản…). Danh mục cho vay của các ngân hàng không chỉ hé lộ phần nào chiến lược tăng trưởng tín dụng, mà còn bộc lộ tiềm năng tăng trưởng cũng như những chỉ báo về chất lượng tài sản của ngân hàng.

Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC.
Theo thống kê của người viết từ báo cáo tài chính (BCTC) kiểm toán năm 2024 của các ngân hàng trong hệ thống, có thể thấy các ngân hàng gốc quốc doanh thường tập trung danh mục cho vay hướng vào nhóm thương mại, bán buôn bán lẻ và công nghiệp với tỷ trọng rất lớn (xấp xỉ 60% dư nợ cho vay tại BIDV và 70% dư nợ cho vay tại Vietinbank).
Trong khi đó, các ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp như MB, SHB, LPBank, SeaBank, OCB, HDB… dành một tỷ trọng khá lớn dư nợ tín dụng hướng vào cho vay bán buôn bán lẻ, ngoài ra tỷ trọng cho vay kinh doanh bất động sản và xây dựng cũng đáng kể.
Trong nhóm ngân hàng này, Techcombank nổi bật là nhà băng dành tới 30,88% dư nợ cho vay cho kinh doanh bất động sản, qua đó dẫn đầu hệ thống cả về quy mô và tỷ trọng dư nợ cho vay bất động sản.
Ở nhóm các ngân hàng chuyên cho vay cá nhân như TPBank, VIB, ACB, VPBank… phần lớn tín dụng hướng đến hoạt động tiêu dùng của hộ gia đình hay cho vay mua nhà. Chẳng hạn, tại VIB, cho vay làm thuê hộ gia đình chiếm gần 72% tổng dư nợ tín dụng toàn ngân hàng, con số này tại TPBank là gần 49%. VPBank dành gần 28% tỷ trọng dư nợ tín dụng để cho vay làm thuê hộ gia đình và khoảng 13,55% khác để cho vay cá nhân mua nhà ở, nhận quyền sử dụng đất…
ACB và không liệt kê chi tiết khoản mục này, tuy nhiên báo cáo tài chính kiểm toán 2024 thể hiện ngân hàng khoảng 64% tổng dư nợ để cho vay cá nhân.
Báo cáo tài chính quý I/2025 của phần lớn các ngân hàng liệt kê chi tiết dư nợ cho vay khách hàng theo ngành nghề kinh doanh cho thấy danh mục cho vay không có nhiều thay đổi, ngoại trừ Kienlongbank và PGBank là hai ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán buôn, bán lẻ tăng vọt.
Nợ xấu ngân hàng qua ‘lăng kính’ danh mục cho vay
Nhìn sâu vào chiến lược của ngân hàng, dòng chảy tín dụng vào mỗi ngành hay lĩnh vực kinh tế đều có những đặc điểm tiềm năng lợi nhuận riêng đi kèm với mức độ rủi ro nhất định. Sự phân hóa trong danh mục cho vay của các ngân hàng do đó cũng dẫn tới sự phân hóa ở các chỉ số biên lãi và tỷ lệ nợ xấu giữa các nhóm ngân hàng.
Tính đến thời điểm kết thúc quý I/2025, tín dụng toàn ngành ước tăng 3,95% so với đầu năm, nhưng thể hiện sự phân hóa rõ rệt theo từng nhóm. Với nhóm gốc quốc doanh, tăng trưởng tín dụng của VietinBank ghi nhận đạt 4,6%, cao nhất nhóm, BIDV báo cáo tín dụng tăng 2,5%.
Ở nhóm ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp, SHB và MSB nổi bật với mức tăng trưởng tín dụng trên 8% trong khi Techcombank, MB, OCB có tín dụng tăng dưới 5% và SeABank, HDBank là hai ngân hàng tín dụng tăng dưới 2%. Mức tín dụng tăng thấp ở một số ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp phần nào phản ánh sự thận trọng do áp lực NIM và thanh khoản, cũng như những khó khăn trong giải ngân tín dụng quý đầu năm.
Nhóm ngân hàng chuyên cho vay cá nhân ghi nhận tăng trưởng khá đồng đều: VPBank và TPBank tăng quanh mức 5%, trong khi ACB, Sacombank, VIB tăng chậm hơn do kiểm soát rủi ro tín dụng.
Nhóm còn lại ghi nhận tín dụng phân hóa với biên độ chênh lệch lớn: Kienlongbank, PGBank, NCB tăng mạnh trên 9% nhờ những chuyển dịch mới trong chiến lược kinh doanh; trong khi ABBank (-0,7%) và Saigonbank (-4,3%) là hai ngân hàng sụt giảm dư nợ.
Trong khi tăng trưởng tín dụng phân hóa, chất lượng tài sản các ngân hàng lại thể hiện xu hướng chung là suy giảm. Theo BCTC quý I/2025 của 27 ngân hàng niêm yết, tổng dư nợ xấu tại thời điểm 31/3/2025 đạt hơn 265,5 nghìn tỷ đồng, tăng gần 17% so với đầu năm. Trong đó, ngoại trừ một vài ngân hàng ghi nhận dư nợ xấu cải thiện so với đầu năm là NCB (giảm 21%), VietABank (giảm 49%) và SeABank (giảm 1%), hầu hết ngân hàng còn lại đều ghi nhận dư nợ xấu tăng so với đầu năm.

Ảnh: T.D tổng hợp từ BCTC.
Trong top 10 ngân hàng có dư nợ xấu tăng nhanh nhất quý I/2025, ngoài 2 ngân hàng gốc quốc doanh là BIDV và Vietinbank còn có những cái tên như OCB, SHB, HDBank, Kienlongbank… là các ngân hàng có tỷ trọng cho vay thương mại - bán lẻ và kinh doanh bất động sản đáng kể. Bên cạnh đó là VPBank, TPBank - hai ngân hàng hướng đến khách hàng cá nhân. VPBank đồng thời cũng là ngân hàng có tỷ trọng cho vay BĐS cao trong top đầu hệ thống.
Xu hướng dư nợ xấu tăng ở một số ngân hàng tư nhân quy mô vừa như VPBank, TPBank, OCB, VIB… đã được lưu ý trong báo cáo mới đây của VIS Rating. Trong đó các chuyên gia lý giải nguyên nhân đáng kể là do các khoản cho vay mua nhà cá nhân trong phân khúc mang tính đầu cơ hoặc liên quan đến các chủ đầu tư bất động sản gặp khó khăn. Ngược lại, các ngân hàng lớn như ACB, TCB có xu hướng duy trì tỷ lệ hình thành nợ xấu ổn định do hạn chế cấp tín dụng đối với các chủ đầu tư bất động sản gặp khó khăn.

Ảnh: VIS Rating
VIS Rating đồng thời lưu ý rủi ro tài sản tiềm ẩn đang gia tăng với các ngân hàng gốc quốc doanh có quy mô khách hàng FDI đáng kể (Vietcombank, BIDV), cũng như đối với các ngân hàng có danh mục cho vay tài chính tiêu dùng cá nhân lớn (VPBank, HDBank, MBBank), trong bối cảnh rủi ro thuế quan đối ứng của Mỹ…

Tỷ lệ nợ quá hạn gia tăng ở nhóm ngân hàng quy mô vừa và ngân hàng gốc quốc doanh. Ảnh: VIS Rating.
Dù vậy, nhận định cho cả năm 2025, các chuyên gia kỳ vọng tỷ lệ hình thành nợ xấu của ngành sẽ giảm nhờ thị trường bất động sản phục hồi làm giảm nợ xấu từ cho vay mua nhà cá nhân. Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ nhằm cải thiện khả năng trả nợ của các doanh nghiệp cũng sẽ tác động tích cực đến chất lượng tài sản ngân hàng.
Chứng khoán Guotai Junan đánh giá việc tỷ lệ trích lập và chi phí dự phòng trên dư nợ cho vay của toàn ngành ngân hàng đều ghi nhận mức giảm trong quý I/2025 so với cùng kỳ và quý trước trong bối cảnh tỷ lệ nợ xấu gia tăng là sự phản ánh kỳ vọng của các ngân hàng vào khả năng thu hồi nợ trong các quý tới, trong bối cảnh Nghị quyết 42 tiếp tục được triển khai nhằm thúc đẩy xử lý nợ xấu và cải thiện hiệu quả thu giữ tài sản bảo đảm.