Nhật ký của một Kamikaze

Ngày 3/8/1945, Trung úy phi công Toro Yamashi thuộc Phi đội Thần phong (Kamikaze) Nhật Bản cùng 5 phi công khác cất cánh từ một sân bay dã chiến trên đảo Hokkaido với 6 chiến đấu cơ Zero, mỗi chiếc mang theo 1 quả bom 250 kg. Mục tiêu của họ là tìm cách lao xuống hạm đội Mỹ trên Thái Bình Dương. Thế nhưng nhiệm vụ của Toro không hoàn thành và anh cũng không bao giờ còn trở về được nữa.

50 năm sau, gia đình Trung úy Toro mới cho công bố cuốn nhật ký của anh, viết về những ngày đầu nhập ngũ cho đến ngày anh chiếc máy bay của anh nổ tung trên biển…

Gia nhập Kamikaze

Tốt nghiệp trung học năm 18 tuổi, Toro thi vào Đại học Công nghiệp Tokyo, Nhật Bản, ngành cơ khí chế tạo máy. Trong những dòng đầu tiên của cuốn nhật ký, Toro viết: “Lẽ ra tôi được hoãn quân dịch vì lý do học vấn nhưng nhìn thấy bạn bè tôi hàng hàng lớp lớp tình nguyện gia nhập quân đội nên tôi không còn tâm trí nào để học…”. Đem chuyện này ra nói với gia đình, ông Kenda Yamashi - cha của Toro hết sức ủng hộ nhưng mẹ ông thì cương quyết phản đối. Dù vậy, “tôi vẫn lẳng lặng ghi tên ở phòng tuyển quân khu phố và nhận được sự chấp thuận”.

Tháng 2/1942, Toro khoác túi hành lý vào trung tâm tiếp nhận tân binh. Sau khi xem hồ sơ của anh, viên sĩ quan phụ trách nhân sự nói: “Này Toro, bạn sẽ phải đi học quân sự trong 6 tháng. Sau đó chúng tôi sẽ chuyển bạn sang không quân. Bạn có thích lái máy bay không?”. Vừa nghe dứt câu, Toro mừng đến nỗi không nói được nên lời. Anh lắp bắp: “Tôi…, tôi rất thích”.

Toro (thứ 3 từ trái sang) bên cạnh chiếc Zero.

Toro (thứ 3 từ trái sang) bên cạnh chiếc Zero.

Tháng 8/1942, sau khi hoàn thành khóa học quân sự, Toro được đưa về Phi đội Thần Phong (Kamikaze) chuyên đánh bom tự sát bằng cách lao máy bay xuống tàu chiến Mỹ. Thời điểm này, Hải quân Mỹ đã tiến gần đến bờ biển Philippines do Nhật kiểm soát với những tàu sân bay mang theo những chiến đấu cơ F6F Hellcat, F4U Corsair mà tầm hoạt động cùng vũ khí hơn hẳn những chiến đấu cơ Nhật Bản lúc bấy giờ.

Trong nhật ký, Toro viết: “Tôi được giải thích rằng Kamikaze là phi đội cảm tử. Chúng tôi sẽ mang bom trên máy bay rồi tìm cách lao xuống tàu Mỹ”. Trung tá Yamagushi, chỉ huy Phi đội Kamikaze ở đảo Hokaido lúc sang nhận quân đã nói với các phi công: “Chắc chắn các anh sẽ không còn ai sống sót để trở về.Tôi cho các anh một ngày suy nghĩ. Các anh có quyền từ chối tham gia để chuyển sang một đơn vị khác mà không bị trừng phạt”.

Khi Yamagushi vừa dứt lới, 96 tân binh không quân đồng loạt hô lớn: “Vì tổ quốc Mặt trời mọc, vì Thiên hoàng, chúng tôi không ai bỏ cuộc”.

Sáng hôm sau, Toro cùng đồng đội chuyển sang Trung tâm huấn luyện bay ở Kyushu. Anh viết: “Suốt thời gian ở đây, chúng tôi học về thời tiết, về các loại mây, học về cấu tạo của máy bay Zero và cách vận hành, các kỹ thuật không chiến. Vì nhu cầu của chiến trường, việc đào tạo phi công chỉ kéo dài 6 tháng thay vì 2 năm như thường lệ”.

Tháng 2/1943 Toro cùng 5 đồng đội khác xách hành lý về sân bay dã chiến Hokkaido: “Đến lúc này, tôi được giao 1 chiếc A6M Zero do hãng Mitsubushi chế tạo. Nó có tầm bay 2.800km, tốc độ tối đa 600km/giờ và có thể bay cao đến 10.000m. Trong các phi vụ tự sát, Zero chỉ được trang bị 1 súng máy 7,7mm và 1 quả bom 250kg thay vì 4 quả bom 66kg như thường lệ…”.

Máy bay của Toro bốc cháy rồi lao xuống biển (ảnh do Hải quân Mỹ chụp).

Máy bay của Toro bốc cháy rồi lao xuống biển (ảnh do Hải quân Mỹ chụp).

Những chuyến bay tự sát đầu tiên

Tháng 10/1944, Toro cất cánh trong phi vụ tự sát đầu tiên. Nhớ lại chuyện này, anh viết: “Sáng hôm ấy, còi báo động vang lên rồi loa phóng thanh đọc đích danh từng người. Phi đội chúng tôi gồm 6 phi công nhanh chóng mặc quần áo bay rồi chạy ra sân. Ở đó, Trung tá Yamagushi đeo lên trán mỗi người một giải băng nhỏ màu trắng có hình mặt trời mọc. Tiếp theo, ông rót cho mội người 1 chén rượu Sake - là biểu hiện sự vĩnh biệt theo truyền thống của không quân Nhật.

Trung tá Yamagushi nói: “Các anh sẽ cất cánh về phía Tây. Tin trinh sát cho biết có một đội tàu Mỹ gồm 4 chiến hạm, 2 hộ tống hạm ở cách các anh khoảng 700 km. Chúng có hỏa lực phòng không rất mạnh, chưa kể máy bay Mỹ từ tàu sân bay Ticonderoga gần đó sẽ nhanh chóng có mặt nếu đội tàu bị tấn công”.

6 giờ 20 phút, Toro cùng các chiến hữu cất cánh. Theo lệnh phi đội trưởng Nomura, tất cả sẽ bay theo hình chữ V ngược, mỗi bên 3 chiếc, mỗi chiếc cách nhau 20m. Khi lên đến độ cao 3.500m, các máy truyền tin vô tuyến đều phải tắt hết để tránh sự phát hiện của đối phương. Mọi liên lạc sẽ được thực hiện bằng các thủ hiệu hoặc bằng cách lắc cánh. Toro viết: “Sau 1 tiếng 30 phút bay, chúng tôi nhìn thấy đội tàu Mỹ. Qua cửa kính buồng lái, tôi thấy Nomura đưa bàn tay lên, hất về bên trái, sau đó ông hất sang bên phải rồi chỉ xuống hạm đội Mỹ, nghĩa là phi đội tách ra làm hai để thực hiện vụ tấn công”.

3 chiếc Zero gồm Toro, Ashaki và Shino sau khi tách sang bên trái thì bắt đầu lao xuống. Lúc này, hạm đội Mỹ đã phát hiện máy bay Nhật nên lập tức, họ giăng màn lưới lửa, từ đại bác phòng không 75mm đến 40mm, chưa kể đại liên 12,7mm. Toro viết: “Ashaki là người lao xuống đầu tiên nhưng đáng tiếc thay, anh bị trúng đạn vào động cơ. Hình ảnh mà tôi nhìn thấy là chiếc Zero tỏa ra một cuộn khói đen ngùn ngụt. Có lẽ hệ thống điều khiến bị hỏng nên thay vì lao vào chiến hạm South Dakota, chiếc Zero cắm đầu xuống biển rồi phát nổ”.

Còn lại Toro và Shino, cả hai lượn vòng rồi thay vì lao xuống chiếc thiết giáp hạm Wyoming, Shino chọn một phương án khác. Anh cho máy bay xuống sát mặt biển rồi điều khiến để nó bay ngang, cách mặt nước biển chỉ khoảng 30m. Ý định của anh là đâm vào hông chiến hạm nhưng 2 chiến hạm đi phía trước đã kịp thời đánh chặn nên máy bay của Shino rơi xuống nước nổ tung.

Còn lại một mình Toro, và trong khi anh đang luồn lách để tránh đạn phòng không thì máy bay của phi đội trưởng Nomura lướt ngang anh. Qua thủ hiệu, anh hiểu rằng Nomura ra lệnh cho anh rút lui. Anh viết: “Tôi chỉ nhìn thấy máy bay của Nomura, còn Nagato và Kiogo thì chẳng thấy đâu. Hẳn là họ đã hy sinh hết”.

Hạ cánh xuống căn cứ Hokkaido. Toro thẫn thờ từng bước về doanh trại. Phi vụ tự sát đầu tiên đã thất bại hoàn toàn: 4 máy bay rơi, 4 phi công thiệt mạng nhưng không một tàu Mỹ nào bị đánh trúng. Theo Toro, ngay tối hôm ấy Nomura đã triệu tập một cuộc họp, nêu ra những ưu điểm, khuyết diểm của cuộc tấn công. Ông nói: “Cái dở của chúng ta là bay quá cao nên phòng không Mỹ có thời gian để đối phó. Vì vậy lần sau, tôi đề nghị chúng ta sẽ bay sát mặt biển rồi khi phát hiện tàu Mỹ, một số chiếc sẽ bốc lên cao rồi đánh xuống, số khác vẫn giữ đội hình bay sát biển để lao vào tàu. Với chiến thuật này chúng ta sẽ gây bối rối cho đối phương và chỉ cần 5 phút bối rối, chúng ta sẽ làm nên chuyện”.

Chiến hạm Missouri của Mỹ bị Kamikaze đánh trúng.

Chiến hạm Missouri của Mỹ bị Kamikaze đánh trúng.

Phi vụ cuối cùng

1 tháng sau, 12 chiếc Zero hạ cánh xuống Hokkaido để tăng cường cho phi đội Kamikaze và Toro được điều về phi đội 3 do Nagano là phi đội trưởng. Ngày 21/10/1941, 2 phi đội gồm 12 chiếc Zero được lệnh xuất kích. Mục tiêu của họ là vùng biển đảo Leyte, Philipinnes, nơi hạm đội Mỹ cùng 4 sư đoàn lính thủy đánh bộ đang tập trung đánh đuổi quân Nhật ra khỏi đảo để thiết lập đầu cầu, tấn công vào đất Nhật. Toro viết: “Trận này một máy bay của chúng tôi đánh trúng mạn phải của chiến hạm Missouri và chiến hạm USS Esexx nhưng không làm chìm được nó. Ngoài ra còn có tàu sân bay USS Interpid cũng bị đánh hư hỏng nặng. Đổi lại chúng tôi mất 9 phi công và 9 máy bay”.

Từ đó cho đến đầu tháng 8/1945, Toro còn tham gia 18 chuyến bay tự sát khác nhưng lần nào anh cũng trở về an toàn vì không thể cho máy bao lao xuống mục tiêu do bị lưới lửa phòng không và máy bay Mỹ ngăn chặn. Anh viết: “Ngày 3/8/1945, tôi cùng 5 phi công được lệnh xuất kích. Mục tiêu của chúng tôi lần này là hạm đội Mỹ ở biển Guaduacanal” (và đây cũng là những dòng cuối cùng trong nhật ký của anh). Sau 2 giờ bay, họ phát hiện 9 khu trục hạm, 3 tuần dương hạm, 3 hộ tống hạm và 6 khinh tốc đỉnh.

Theo lệnh phi đội trưởng, Toro rẽ sang trái, nhắm vào chiếc khu trục hạm dẫn đầu đội hình. Phi công Nagayushi, người duy nhất còn sống sót trong phi vụ này kể: “Tôi bay song song với Toro, anh ấy cho máy bay chúi xuống, bao phủ anh ấy là những cụm khói dày đặc của súng phòng không. Giây lát tôi thấy cánh trái của chiếc Zero do Toro điều kiển bị đứt lìa khiến máy bay xoáy theo hình trôn ốc. Hình ảnh cuối cùng mà tôi nhìn thấy là chiếc Zero lao thẳng xuống biển rồi nổ tung”.

Toro chết khi chỉ còn 3 ngày nữa là trái bom nguyên tử đầu tiên rơi xuống thành phố Hiroshima (6/8/1945) rồi ngày 9/8/1945, trái thứ nhì được người Mỹ ném xuống Nagasaki. Nhật Bản đầu hàng ngày 12/8/1945, cuộc chiến tàn khốc ở mặt trận Thái Bình Dương kết thúc

9 tháng sau khi chiến tranh kết thúc, những người bạn của Toro ở đảo Hokkaido đem về cho gia đình Toro những di vật của anh, gồm bộ quần áo bay, bình đựng nước, con dao găm và cuốn nhật ký. Em gái của Toro là Michiko Yamashi nói: “Cha mẹ tôi khóc ngất khi đọc những dòng chữ anh ấy viết. Ông bà làm một cái hòm bằng kính, trong đó để tất cả những gì còn lại của anh tôi. Cho đến lúc lìa đời, cứ đến ngày 3/8 là ông bà lại mở cái hòm kính lấy nhật ký ra đọc”.

Năm 1950, Tiểu ban bảo tồn di sản chiến tranh Nhật Bản đã nhiều lần gặp gỡ cha mẹ Toro, đề nghị ông bà cho xuất bản cuốn hồi ký nhưng lần nào họ cũng nhận được những lời từ chối. Michiki nói: “Mãi đến 1995, khi cha mẹ tôi đã mất, những người còn sống trong Phi đội Kamikaze một lần nữa thuyết phục tôi cho xuất bản cuốn hồi ký. Sau khi hỏi ý kiến của chồng tôi và 2 đứa con, tôi nhận lời”.

Tháng 12/1950, hồi ký của Toro ra mắt người đọc gồm 2 phiên bản tiếng Anh và tiếng Nhật. Theo Michiko, cô được nhà xuất bản trả 1 triệu yen tiền tác quyền cùng 60 cuốn gồm 30 bản tiếng Nhật, 30 bản tiếng Anh. Sau đó tôi tặng cho bạn bè của anh Toro, và cả những phi công hải quân Mỹ, sĩ quan trên một số tàu chiến Mỹ: “Tôi đặt lại trong hòm kính nhật ký viết tay cùng 2 bản in. Mỗi lần nhìn vào di vật của anh tôi, tôi có linh cảm rằng anh tôi vẫn còn hiện diện trong ngôi nhà này…”.

Vũ Cao (Theo History: Theo Secrets in WW2)

Nguồn ANTG: https://antg.cand.com.vn/ho-so-mat/nhat-ky-cua-mot-kamikaze-i770288/
Zalo