Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
Ngày 6-5-1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập, là một cơ quan ngang bộ trong Hội đồng Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng ngoại hối, ngân hàng đồng thời kiểm soát hoạt động kinh doanh của các ngân hàng chuyên nghiệp.
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ông Lê Viết Lượng làm Phó Tổng Giám đốc. Đầu năm 1952, đồng chí Nguyễn Lương Bằng được cử đi làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Chính phủ Việt Nam tại Liên Xô, ông Lê Viết Lượng làm Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.

Nhà bia Di tích lịch sử ngành Ngân hàng tại xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được tổ chức theo ba cấp: Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Liên khu và Ngân hàng tỉnh, thành phố. Ngân hàng Trung ương ở và làm việc tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (1951-1952). Tháng 4-1952, chuyển đến xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương và đặt trụ sở tại xã Minh Thanh đến khi hòa bình.
Ngân hàng Trung ương gồm: Vụ văn phòng, Vụ Nghiệp vụ, Vụ kế toán, Vụ phát hành. Tháng 5-1951, thành lập Kho dự trữ và phát hành tiền thuộc Vụ phát hành đặt trụ sở tại xã Bình Nhân, huyện Chiêm Hóa.
Nhiệm vụ cụ thể của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam gồm: Quản lý kho bạc nhà nước; huy động vốn cho vay phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa; quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối, các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam thực hiện chủ trương của Nhà nước về phát hành giấy bạc Ngân hàng. Nghiệp vụ phát hành, kho quỹ, kế toán, thanh toán được xây dựng và quản lý chặt chẽ. Ngày 15-7-1951, Chính phủ công bố lệnh phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ. Đây là cuộc cải cách, tạo lập chế độ tiền tệ mới: Đơn vị tiền tệ Việt Nam là đồng Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Cơ chế phát hành thực hiện chủ yếu thông qua tín dụng và được quản lý tập trung thống nhất. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là cơ quan nhà nước quản lý phát hành và tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ, bảo vệ nền tiền tệ độc lập, tự chủ và bảo vệ tài sản của nhân dân, phục vụ kháng chiến.