Luật Công nghiệp công nghệ số: Hỗ trợ phát triển trí tuệ nhân tạo

Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều 9/5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan, Quốc hội đã nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp Công nghệ số. Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày báo cáo.

Quốc hội nghe trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.

Quốc hội nghe trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số.

Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Công nghiệp công nghệ số (CNCNS), đã có 67 lượt ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu. Đa số ý kiến ĐBQH tán thành về sự cần thiết ban hành Luật CNCNS và cơ bản nhất trí với nhiều nội dung của dự thảo Luật.

Ngay sau kỳ họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo quán triệt, bám sát các mục tiêu chính sách, quan điểm và yêu cầu đối với dự án Luật đã trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8; tổng hợp, nghiên cứu, chỉnh lý dự thảo Luật theo ý kiến của các vị ĐBQH; tiếp tục tổ chức hội thảo, tọa đàm để có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện dự thảo Luật, nhất là những nội dung còn có ý kiến khác nhau.

Quy định về khu Công nghệ số là cần thiết

Theo UBTVQH, về những ý kiến băn khoăn của ĐBQH về sự cần thiết của việc xây dựng khu công nghệ số (CNS) tập trung, và đề nghị rà soát, xác định mối quan hệ giữa khu CNS tập trung tại dự thảo Luật với khu công nghệ cao tại Luật Công nghệ cao (CNC) và khu công nghệ thông tin (CNTT) tập trung tại Luật CNTT.

Về vấn đề này, UBTVQH giải trình cho rằng: quy định về khu CNS tập trung trong dự thảo Luật không làm phát sinh quy định về khu chức năng mới mà là quy định chuyển tiếp (thay thế khu CNTT tập trung trong Luật CNTT bằng khu CNS tập trung). Theo xu thế phát triển hiện nay, công nghiệp CNTT sẽ phát triển thành CNCNS, do đó, các hoạt động đầu tư vào khu CNTT tập trung sẽ là các dự án CNCNS. Khu CNS tập trung hoạt động nghiên cứu, phát triển, sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNS theo mô hình công nghiệp. Việc thay thế khái niệm khu CNTT tập trung bằng khu CNS tập trung để bao quát, cập nhật hơn với xu thế phát triển của CNS. Còn với khu CNC là nơi tập trung, liên kết hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng CNC; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đào tạo nhân lực công nghệ cao; sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, cung ứng dịch vụ công nghệ cao có mục tiêu khác với khu CNS tập trung. Do vậy, việc quy định khu CNS tập trung trong dự thảo Luật là cần thiết; đồng thời để đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật và việc hoạt động liên tục của các khu CNTT tập trung hiện có, dự thảo Luật đã có quy định điều khoản thi hành và quy định chuyển tiếp về nội dung này tại Điều 55, Điều 57.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành phiên họp.

Phó Chủ tịch Quốc hội Lê Minh Hoan điều hành phiên họp.

Đối với các ý kiến của Đại biểu liên quan đến việc cần tiếp tục rà soát, đối chiếu các cơ chế chính sách về ưu đãi, miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động CNCNS với quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp để quy định cụ thể về cơ chế ưu đãi đặc thù, đảm bảo tính khả thi trong thực tiễn. UBTVQH cho rằng, dự thảo Luật đã quy định các chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động CNCNS như: tăng mức khấu trừ chi phí đối với chi cho hoạt động nghiên cứu và phát triển là 200% (khoản 5 Điều 15); đầu tư xây dựng nhà máy, dây chuyền, máy móc phục vụ hoạt động sản xuất sản phẩm CNS là 150% (khoản 3 Điều 41) ; giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho các doanh nghiệp thiết kế bán dẫn, doanh nghiệp điện tử có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chuyển giao quy trình sản xuất và sử dụng doanh nghiệp nội địa trong chuỗi cung ứng (Điều 43). Tuy nhiên, thực hiện nguyên tắc một vấn đề chỉ quy định ở một văn bản luật, các chính sách này sẽ được nghiên cứu thu hút về dự thảo Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp (sửa đổi) trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý, để bảo đảm đồng bộ, thống nhất với dự thảo Luật CNCNS.

Các đại biểu dự phiên họp.

Các đại biểu dự phiên họp.

Bổ sung các quy định để hỗ trợ phát triển Trí tuệ nhân tạo

Liên quan đến vấn đề quản lý rủi ro và biện pháp thúc đẩy hệ thống trí tuệ nhân tạo, UBTVQH thấy rằng, dự thảo Luật đã quy định về AI theo hướng thúc đẩy nghiên cứu, phát triển, ứng dụng AI vào cuộc sống; quản lý rủi ro và lấy con người làm trung tâm; quy định quản lý đối với hệ thống AI rủi ro cao, hệ thống tác động lớn và không đặt yêu cầu quản lý đối với hệ thống trí tuệ nhân tạo không rủi ro cao và giao Chính phủ quy định chi tiết phù hợp thực tiễn quản lý ngành, lĩnh vực (Điều 46). Nguyên tắc quản lý rủi ro này được xây dựng trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và phù hợp thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, dự thảo Luật cũng bổ sung quy định về Chiến lược nghiên cứu, phát triển và ứng dụng AI (Điều 45) nhằm thúc đẩy, phát triển và ứng dụng AI hiệu quả, bền vững và có trách nhiệm trong các ngành, lĩnh vực.

Về ý kiến đề nghị cần có quy định về sở hữu trí tuệ đối với AI, UBTVQH nhận thấy pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định quyền sở hữu trí tuệ chỉ có thể thuộc về tổ chức, cá nhân (con người) sở hữu hoặc trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm, sáng chế,… chứ không áp dụng đối với AI.

Hiện nay, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và nhiều quốc gia vẫn đang tiếp tục nghiên cứu vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ đối với các sản phẩm do AI tạo ra, chưa chính thức luật hóa hoặc đưa vào các công ước quốc tế. Do đó, UBTVQH sẽ chỉ đạo nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện quy định về vấn đề nêu trên trong Luật Sở hữu trí tuệ vào thời điểm phù hợp.

Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày báo cáo

Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Quang Huy trình bày báo cáo

Liên quan đến vấn đề tài sản số được Đại biểu quan tâm UBTVQH cho rằng rằng, theo dự thảo Luật, tài sản số đã được xác định là tài sản theo pháp luật dân sự hiện hành. Quyền tài sản, quyền sở hữu, giao dịch, bảo mật, trách nhiệm, giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro … đã được điều chỉnh theo quy định của pháp luật hình sự, pháp luật về phòng chống tham nhũng, chống rửa tiền và pháp luật có liên quan. Do vậy, nhằm bảo đảm tính khả thi, linh hoạt và ổn định của hệ thống pháp luật, dự thảo Luật chỉ quy định mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ quy định cụ thể cho phù hợp với thực tiễn phát triển.

Cũng theo UBTVQH, dự thảo Luật CNCNS đã có các quy định về nguyên tắc, tiêu chí, thẩm quyền, quyền, trách nhiệm, bảo vệ người sử dụng và miễn trừ trách nhiệm trong thử nghiệm sản phẩm, dịch vụ ứng dụng CNS… và giao Chính phủ quy định chi tiết để thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng tại Nghị quyết số 57-NQ/TW. Tuy nhiên, dự án Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 cũng có quy định về nội dung này với mục đích để áp dụng cho nhiều lĩnh vực khác nhau.

Để bảo đảm tính thống nhất của các quy định về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, UBTVQH đã chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu ý kiến ĐBQH và chỉnh lý Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo theo hướng quy định khung chung về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát. Trên cơ sở các quy định khung này, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát đối với sản phẩm, dịch vụ ứng dụng CNS sẽ được quy định cụ thể, chi tiết hơn, bảo đảm thống nhất.

Bùi Lan Anh – Hiền Trang - Nghĩa Đức - Trọng Quỳnh

Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn//tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=93991
Zalo