Làm sao để xuất khẩu thủy sản bứt phá giới hạn
Suốt nhiều năm, xuất khẩu thủy sản chỉ cầm chừng 8 – 10 tỷ USD mỗi năm, thiếu vắng động lực tăng trưởng mới để đạt mục tiêu chiến lược đến 2030.
Năm 2024, ngành thủy sản Việt Nam đối mặt nhiều khó khăn, từ tác động của lạm phát, chi phí sản xuất gia tăng tới nguồn nguyên liệu cho xuất khẩu khan hiếm, cạnh tranh quốc tế cũng như biến đổi khí hậu.
Dù có nhiều nỗ lực, đạt được kết quả xuất khẩu thủy sản ấn tượng trong năm nay, ngành thủy sản Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức lớn trong bối cảnh toàn cầu thay đổi nhanh chóng và bất định.
Trong đó, một vấn đề nổi bật mà ngành thủy sản cần xem xét là trong suốt khoảng thời gian 5 – 6 năm qua, trừ năm 2022, giá trị xuất khẩu chỉ cầm chừng ở mức 8 – 10 tỷ USD mỗi năm.
Trong khi đó, mục tiêu xuất khẩu thủy sản mong muốn theo chiến lược phát triển ngành đến 2030 là 14 – 16 tỷ USD, đồng nghĩa với việc ngành phải giữ được tốc độ tăng trưởng 10 – 15% trong thời gian tới.
Phân tích này được Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hoài Nam đưa ra tại hội nghị tổng kết ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chiều ngày 27/12.
Con số tăng trưởng trên càng trở nên thách thức hơn trong bối cảnh dự báo tăng trưởng tiêu thụ thủy sản toàn cầu chỉ đạt mức 5 – 6%.
“Cảm giác là xuất khẩu thủy sản cần có động lực tăng trưởng mới trong bối cảnh thế giới quá nhiều bất định, thay đổi nhanh trong kỷ nguyên số”, ông Nam bày tỏ.
Theo ông, để đạt được mục tiêu này, ngành thủy sản không chỉ cố gắng giữ vững thị phần, tăng hàm lượng chế biến giá trị gia tăng, mà còn cần nghiên cứu để có một mô hình tăng trưởng mới phù hợp.
Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu thủy sản
Từ góc nhìn của hiệp hội, ông Nam nhấn mạnh, tạo động lực cho nông – ngư dân nuôi trồng và khai thác là vấn đề cốt lõi.
Nguyên nhân là bởi nguyên liệu cho xuất khẩu và tiêu dùng là vấn đề sống còn và là tiền đề cho tăng trưởng. Nông – ngư dân là lực lượng lớn tham gia trong ngành nhưng không ít trong số đó vẫn còn khó khăn, còn nhiều bất cập.
Ông Nam băn khoăn, vấn đề trước hết đặt ra là làm sao để ngư dân bên cạnh việc tuân thủ các quy định pháp luật, bao gồm cả IUU, có động lực để tăng cường khai thác biển, tái đầu tư để vươn khơi xa, ngư dân được khai thác và tiêu thụ nguyên liệu bình thường.
Để giải quyết vấn đề này, đại diện VASEP đề xuất thành lập chợ đấu giá để bán được giá tốt nhất cho ngư dân và tập trung được dữ liệu; cần soát xét, sửa đổi phù hợp các quy định liên quan đến vùng khai thác, các quy định liên quan đến kích thước khai thác tối thiểu của một số loài – đặc biệt là cá ngừ vằn, ngừ vây vàng và các loài di cư.
Đại diện VASEP cũng khuyến nghị xem xét khơi thông xuất khẩu con ruốc, loại thủy sản không cần giấy xác nhận nguyên nhiệu, giấy chứng nhận thủy sản khai thác sang thị trường EU vì khai thác ruốc chỉ dùng thuyền thúng và gần bờ, tạo thuận lợi cho đời sống ngư dân.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có chiến lược xây dựng mô hình các tập đoàn, doanh nghiệp lớn về khai thác biển để hợp tác khai thác với các quốc gia có biển, không chỉ mở rộng phạm vi hoạt động mà còn tạo động lực mới cho ngư dân khai thác biển, cho nguồn nguyên liệu dồi dào bền vững hơn.
Vấn đề tiếp theo cần giải quyết là làm sao để nông dân, người nuôi trồng thủy sảncó động lực mới để đầu tư và tăng cường các hoạt động nuôi trồng cả trên đất liền và trên biển.
Giải phápcó thể nghĩ tới là rà soát các quy định pháp luật để người dân nuôi trồng có thể thế chấp, có thể vay vốn ngân hàng một cách bình thường; cấp giấy phép mặt nước cho người dân như dạng “sổ đỏ” để người dân có thể vay vốn từ các quỹ hoặc ngân hàng.
Không chỉ vậy, các tỉnh cần ưu tiên sử dụng các quỹ đất, mặt nước cho nuôi trồng thủy sản, bao gồm cả diện tích mới và diện tích hết hạn thuê, thay vì chỉ tập trung cho du lịch, phát triển đô thị.
Về phía cơ quan quản lý, đại diện VASEP khuyến nghị Chính phủ, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục đẩy mạnh tín dụng xuất khẩu, gói tín dụng dành cho lâm – thủy sản như đã triển khai hiệu quả hai năm qua; đẩy mạnh bảo hiểm nông nghiệp, hỗ trợ chia sẻ rủi ro với nhà nông khi kinh nghiệm bão số 3 vừa qua cho thấy rõ nhu cầu này.
Ngoài ra, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới, chuyển đổi số và có quy chế ràng buộc các chủ thể tham gia ngành thủy sản phải quan tâm và có giải pháp kiểm soát, hạn chế và trung hòa phát thải để ngành phát triển ổn định và bền vững.
Ngoài các giải pháp tạo động lực cho nông – ngư dân, ông Nam cho rằng cũng cần tạo động lực cho doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản.
Theo đó, ông khuyến nghị cần tập trung các hoạt động ngoại giao kinh tế, đàm phán song phương và xúc tiến thương mại có mục tiêu tại các thị trường quan trọng để khơi thông lợi thế cho thủy sản Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh việc cải thiện môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các thủ tục hành chính.