Không được bồi thường khi bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai

Theo quy định của Luật Đất đai 2024, nếu cá nhân, tổ chức đang sử dụng đất mà vi phạm pháp luật về đất đai thì có thể bị thu hồi đất.

Những trường hợp bị thu hồi đất do vi phạm pháp luật vể đất đai được quy định tại Điều 81 Luật Đất đai 2024 cụ thể như sau:

1. Sử dụng đất không đúng mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng đất không đúng mục đích mà tiếp tục vi phạm.

2. Người sử dụng đất hủy hoại đất và đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi hủy hoại đất mà tiếp tục vi phạm.

3. Đất được giao, cho thuê không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền.

4. Đất do nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho từ người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất mà người được giao đất, cho thuê đất không được chuyển nhượng, tặng cho theo quy định của Luật này.

Trường hợp người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước đã được quy định cụ thể tại Điều 30 Nghị định 102/2024/NĐ-CP. Theo đó, người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước là trường hợp người sử dụng đất không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế nhưng không chấp hành thì cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị thu hồi đất.

5. Đất được Nhà nước giao quản lý mà để bị lấn đất, chiếm đất.

6. Người sử dụng đất không thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.

7. Đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản không được sử dụng trong thời gian 12 tháng liên tục, đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời gian 18 tháng liên tục, đất trồng rừng không được sử dụng trong thời gian 24 tháng liên tục và đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà không đưa đất vào sử dụng theo thời hạn ghi trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính;

8. Đất được Nhà nước giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa hoặc tiến độ sử dụng đất chậm 24 tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư; trường hợp không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm tiến độ sử dụng đất so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư thì chủ đầu tư được gia hạn sử dụng không quá 24 tháng và phải nộp bổ sung cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với thời gian được gia hạn; hết thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất và chi phí đầu tư vào đất còn lại.

9. Các trường hợp quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều này không áp dụng đối với trường hợp bất khả kháng.

Luật sư Trần Xuân Tiền - Trưởng Văn phòng luật sư Đồng đội

Luật sư Trần Xuân Tiền - Trưởng Văn phòng luật sư Đồng đội

Luật sư Trần Xuân Tiền - Trưởng Văn phòng luật sư Đồng đội phân tích: "Trường hợp bất khả kháng để áp dụng trong việc xử lý các trường hợp quy định tại các khoản 6, 7 và 8 Điều 81 Luật Đất đai là sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan được quy định trong Bộ luật Dân sự. Theo đó “sự kiện bất khả kháng” là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Còn “trở ngại khách quan” là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình."

Căn cứ khoản 1 Điều 31 Nghị định 102/2024/NĐ-CP, các sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng đất bao gồm:

1. Thiên tai, thảm họa môi trường;

2. Hỏa hoạn, dịch bệnh;

3. Chiến tranh, tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, an ninh;

4. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về tình trạng khẩn cấp;

5. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên, phong tỏa quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật mà sau đó người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng đất;

6. Quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là trở ngại khách quan, không do lỗi của người sử dụng đất, tác động trực tiếp đến việc sử dụng đất;

7. Các trường hợp khác do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề xuất của UBND cấp tỉnh hoặc Bộ trưởng bộ quản lý chuyên ngành.

Quy định của pháp luật đã liệt kê cụ thể các trường hợp được coi là trường hợp bất khả kháng. Khi người sử dụng đất có một trong các căn cứ nêu trên thì sẽ không bị áp dụng quy định về thu hồi đất. Các quy định này nhằm bảo đảm tính linh hoạt trong việc xử lý các trường hợp đặc biệt, đồng thời bảo vệ quyền lợi của người sử dụng đất trong những hoàn cảnh không thể kiểm soát - Luật sư Trần Xuân Tiền nhấn mạnh.

Theo nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất thì khi Nhà nước thu hồi đất, người dân sẽ được bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng hoặc bằng tiền theo giá đất. Tuy nhiên, căn cứ theo khoản 3 Điều 101 Luật Đất đai 2024 thì các trường hợp đất bị thu hồi do vi phạm pháp luật về đất đai các sẽ không được nhà nước bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất.

Việt Anh/VOV2

Nguồn VOV: https://vov.vn/phap-luat/khong-duoc-boi-thuong-khi-bi-thu-hoi-dat-do-vi-pham-phap-luat-ve-dat-dai-post1138772.vov
Zalo